Thứ Năm, 28 tháng 6, 2007

thơ viết ở Đại Lải tháng 7 năm 2006

SẼ CÓ MỘT NGÀY
Hồ Tĩnh Tâm


Nhất định có ngày em sẽ nhớ anh
Người đàn ông yêu em hơn chồng em gấp bội
Người đàn ông khiến em thành tội lỗi
Của ngàn đời trần thế yêu đương!

Nhất định có ngày em sẽ tơ vương
Về tất cả những gì anh nói
Về câu chữ cháy bùng anh réo gọi
Hỡi người đàn bà làm vấp ngã tim anh!..

Nhất định có ngày anh hét giữa thiên thanh
Rằng em sinh ra để cột đời anh lại
Rằng ngàn năm vẫn ngực trần con gái
Rót vào anh …
rót mãi…
nỗi đau này.

Nhất định có ngày, nhất định em say
Những con chữ vô hồn anh xếp thành khát vọng
Đã là biển thì đêm ngày phải sóng
Đã là nhau nhàu nát có là gì?

Mai xa rồi, em hãy nói đi
Dù sẽ chẳng là chi đi chăng nữa
Thì trái đất vẫn là nơi thắp lửa
Đốt lòng nhau bỏng cháy quá đi thôi!

Nhất định có ngày em sẽ thuộc về tôi
Khi nấm mộ rưới đầm đìa nước mắt
Em nhìn lên thấy trời đau thắt
Giữa trần gian cô độc trái tim này.

Đại Lải, 13.7.06




TÔI VÀ CUỘC TRUY HOAN CỦA MUỖI
Hồ Tĩnh Tâm


Hai mươi năm tôi ngủ không mùng
Những con muỗi nhà tôi quen tôi từng giọt máu
Những con muỗi nhà tôi không cần nơi ẩn náu
Thịt da tôi là giường chiếu chúng truy hoan;
Hai mươi năm tôi bất chấp lo toan
Máu tôi đỏ như hoàng hôn chín đỏ
Những con muỗi nhà tôi hiểu hơn tôi điều đó
Vậy mà em…
em hỡi…
vậy mà em!..

Hai mươi năm tôi thác loạn thành dòng
Những thác loạn trên cánh đồng của giấy
Tôi biến hoá những điều không thể thấy
Của thiên đường, của địa ngục, của mung lung
Của thẳm sâu cảm thức tột cùng
Đến chín rụng những gì yêu và ghét
Đời trần tục nhóm lửa lên đốt hết
Thơ làm gì khi trống vắng tình em
Tôi thả buông tôi như thả buông đèn;
Tha hồ đốt hỡi những bầy muỗi đói
Tôi đã tung hê hết điều réo gọi
Máu vẫn còn tôi có tiếc gì đâu!

Hai mươi năm tôi tận hiến tận sinh
Tôi sống bản năng đến từng hơi thở
Tôi chỉ cần một điều em phải nhớ
Máu tôi không cạn bao giờ!

Đại Lải, 13.07.06



CHIẾC XE NGỰA CHIỀU HÔM
Hồ TĩnhTâm

Như từ huyền sử xa xưa
Vẳng trong tiếng gió chạnh đưa xuống đời
Chiếc xe ngựa của tôi ơi
Gập ghềnh dốc núi chở lời hoàng hôn
Sợi buồn vấn vít chiều thôn
Ai ru câu lý trắng hồn cỏ lau
Nhân tình qua bấy cơn đau
Vó câu khấp khểnh gõ nhàu thời gian
Thẳm sâu cõi thế cung đàn
Giọng người gọi nát nỗi hàn huyên xa
Lênh đênh trong cõi ta bà
Ta trần gian đến nỗi tà cơn mê
Đổ theo triền dốc lối về
Chiếc xe ngựa chở nặng nề truân chuyên
Ví dầu cỏ biết xe duyên
ú liu chim quạ cũng chuyền cành khô
Bánh xe xiết rảnh mơ hồ
Song song thẳng xuống nẻo Hồ Tịnh Tâm

Đại Lải, 11.7.06




CÓ NHIỀU ĐÊM NHƯ THẾ
Hồ Tĩnh Tâm




Tôi đã thức rất nhiều đêm như thế
Để lắng nghe lời gió kể về em
Tôi đã thức rất nhiều đêm như thể
Tự thắp lên một đốm lửa đèn.

Em đâu biết mòn từng đêm cổ tích
Tôi lạc tôi sâu trong cõi vô cùng
Hồn vấp gió trượt chân vào u tịch
Nhú cơn đau thắt ngực lạnh lùng.

Một chấm nhỏ làm nên duyên con gái
Sợi tóc mềm cột chặt lối tương tư
Ngón tay uốn cong nẻo chiều mềm mại
Mà vòng tay buông trắng cả thực hư.

Huyền thoại đến bất ngờ như gió thổi
Cả vòm trời con gái cháy thành thơ
Hoài vọng cũ sẽ không còn giữ nổi
Sương khói giật mình ngu ngơ.

Đại Lải, 12.7.06




DỐC ĐỜI
Hồ Tĩnh Tâm
Tặng Hoàng Kim Bảo (H. Thủy Hương)

Cơn gió nhẹ lay một bông cỏ dại
Thắp trong tôi xa ngái những ngày mưa
Đầm đẫm ướt những gì trôi đi mãi
Nỗi truân chuyên nặng gánh mấy cho vừa

Tôi gom hết tuổi tên mình lăn lóc
Dốc đời ơi bạc tóc vẫn chưa thôi
Không ra khỏi chiếc bóng mình nặng nhọc
Đành lê chân theo cánh võng đưa nôi

Lời kinh kệ ru bốn mùa của lá
Bạc phai màu trắng toát cả thời gian
Hoài niệm cũ ghim tôi vào vách đá
Rịn mồ hôi nhỏ xuống cơ hàn

Chợt dốc nắng hửng lên màu cổ sử
Trương Chi ơi đau thắt đến bao giờ
Người với người hư vô từng con chữ
Chẳng kết dòng lại ngoảnh mặt làm ngơ

Dốc trần thế Nam Mô Bồ Tát
Nhiệm màu đâu hương khói là đà
Tuột hết cả Ngân Hà từng vạt
Lạnh hồn ta niệm niệm Di Đà

Ta nhặt nhạnh hết những ngày đã sống
Quăng vào trong bão táp cô đơn
Nghe tim đập tan tành cơn giếng mộng
Trần gian ơi lạnh lẻo mấy cung đờn

Đại Lải, 5.7.06



DỊU DÀNG RỨA HUẾ
Hồ Tĩnh Tâm
Tặng Kim Giang

Dịu dàng chi rứa Huế ơi
Nước hồ Đại Lải cháy lời gọi nhau
Tóc xanh đời vốn bạc đầu
Quả cau đất Vĩnh lá trầu Phú Vang
Dịu dàng chi rứa dịu dàng
Mắt nhung rất Huế bàng hoàng chiều rơi
Giật mình ta gọi ta ơi
Hương Giang bãng lãng rối bời bời nhau
Đường về bạc trắng ngàn lau
Lý con chim quạ kêu đau cả lòng
Thà rằng đừng gặp cho xong
Gặp rồi khổ lắm nỗi đèo bòng người ơi
Cao xanh thăm thẳm là trời
Không soi hết được nửa đời tương tư
Cuộc tình thực thực hư hư
Đêm nay Vĩnh Phúc dường như chạnh lòng

Đại Lải, 5.7.06
H.T.T.


Bữa mô anh về Nguyệt Biều- Hương Thủy được hỷ? HTT



GỞI MỘT NGƯỜI Ở XUÂN HÒA
Hồ Tĩnh Tâm



Dù chỉ có với nhau rất ít
Nhưng Xuân Hoà đã gắn những chiều thương
Hương của tóc
Của bờ vai
Của gió
Sắc của môi
Của má
Lịm Hoàng hôn.

Xuân Hoà ơi
Gió từ núi Thằn Lằn thổi xuống
Chín hồn nhau
Ướt đẫm tiếng tơ lòng
Hoài vọng gió
Thắp lửa chiều cháy đỏ
Đá cũng tan thành nhớ
Nữa là ta.

Từng con chữ
Sắp hàng thành duyên nợ
Cột đời nhau
Biết đến bao giờ?..

Dù chưa có
Người ơi
Dù chưa có
Một bàn tay nắm một bàn tay
Nhưng Vĩnh Phúc
Sẽ thắp ngày hạnh phúc
Nếu xa nhau
Còn vướng sợi tơ trời!..

Đại Lải, 11/7/06




TẤC LÒNG VỚI NGƯỜI ĐI
Hồ Tĩnh Tâm
Tặng Nguyễn Thị Lũy


Không thể đưa em về Yên Bái
Anh đưa anh về lại lòng anh
Thấy đời mong manh
Thấy tình hư ảo
Thấy những chiều bến sông giặt áo
Tóc ai dài nhưng không phải là em.

Anh đốt hết những đêm suông không ngủ
Không ngủ thương, không cạy cửa, không buồn
Không cả không, không cả cánh chuồn
Bay thấp, bay cao, báo mưa, báo nắng
Báo cột tay nhau trong chiều lằng lặng
Lẽ nào ta ăn cắp tình nhau?

Anh sẽ có ngày theo em về Yên Bái
Lời chồng con em gác lại thung sâu
Chạnh lòng ở đâu
Chạnh lòng ở gió
Chạnh lòng lửa đỏ
Thắp sáng đêm rừng.

Đêm dài con nước rưng rưng
Chảy mòn Yên Bái đã dừng được đâu.

Đại Lải, 8.7.06



THƠ CHO HAI NGƯỜI BẠN MỚI
Hồ Tĩnh Tâm

Một.
Tôi đã có một buổi chiều Đại Lải
Mắt em xanh chớp tím cả đồi thông
Chưa xa cách đã nghe lòng xa ngái
Trà Cổ ơi… biển sóng cuộn trong lòng.

Hai.
Dịu dàng đến tận cùng dòng Hương thơm cỏ núi
Em Phú Vang tóc xõa ánh dương chiều
Âm trầm quá, ngọt ngào xui bổi hổi
Thèm bàn tay nắm chặt lấy thương yêu.

Đại Lải, 2.7.06



XIN HÃY NÓI NÊN LỜI
Hồ Tĩnh Tâm
(tặng Ngọc Thúy)



Núi Bài thơ ơi núi Bài Thơ
Tôi với em đã hiểu nhau trên từng trang viết
Trời từ đây sẽ rung ngân da diết
Những riêng chung cột chặt lấy từng trang
Trải đời ra đầm đẫm dưới trăng vàng
Ta cháy hết ngỡ ngàng đêm huyền thoại
Tuổi đã qua biết bao mùa con gái
Vẫn trong veo dòng chảy của yêu thương
Tình là chi mà rất đổi vô thường
Bay thẳng xuống nghìn trùng thương với nhớ
Cho dậy sóng lời người ơi người ở
Sóng Hạ Long và sóng Cửu Long Giang
Sóng lòng ta dội tiếng đá vàng
Rung ngân mãi những cung đàn thổn thức
Khi ta đứng giữa chênh vênh bờ vực
Để kiếm tìm hai nửa cuộc đời nhau
Dù mòn đêm thao thức một niềm đau
Em cũng biết như là anh đã biết
Bến bờ xa cuồn cuộn dòng nước xiết
Chiếc thuyền tình mỏng mảnh qúa đi thôi
Có trao nhau xin hãy nói nên lời.

Đại Lải, 5.7.06
H.T.T.

Dẫu mòn thế kỷ vẫn chờ em!!! - HT

sáng chủ nhật ở Đại Lải

SÁNG CHỦ NHẬT Ở ĐẠI LẢI
Tạp văn của Hồ Tĩnh Tâm

5g00 sáng.
Tôi đang ngồi viết say sưa trong phòng D4 thì điện đèn tắt phụt. Người đàn bà mà tôi bịa ra là người tình, vậy là đứt hứng. Buồn tình, tôi thả bộ tà tà xuống hồ Đại Lải. Có tiếng sủa ông ổng. Rồi con Vàng ở đâu hiện ra. Nó là con chó tôi đã kịp quen vào chiều 30 tháng 6, khi tôi ném cho nó mẫu bánh mì kẹp thịt. Vậy đấy, chỉ tốn không đầy nghìn bạc, mà chó với người thân nhau.
Vàng rối rít vẫy đuôi, chạy đến hít hít hạ bộ của tôi, rồi ngoạm lấy ống quần tôi, kéo về hướng dãy nhà lá của khu du lịch, nơi neo đậu hai cái du thuyền, mà thỉnh thoảng tôi vẫn thấy trên ti vi. Lạ thật! Trên màn hình nó đẹp là thế, còn bây giờ đứng buồn thiu đón khách… thấy thảm. Nhưng thôi, cứ theo con vàng cái đã. Chả gì tôi với nó cũng là chỗ thân tình. Xa nhà, có người quen là mừng, đằng này lại quen được với con vàng, giống chó nòi Vĩnh Phúc thứ thiệt.
Trời ạ! Vàng khoe với tôi một ổ chó con, nằm trong góc khuất cái nhà lá bỏ không. Sáu con cả thảy. Con nào cũng màu vàng, cũng còn nhắm tít hai con mắt. Tất cả đều đang rúc đầu vào vú mẹ. Mẹ chúng lông đen, tai dựng, chỉ nhìn tôi một cái, rồi đập đập chùm lông đuôi xuống đất, áng chừng như muốn nói: Khách của Vàng hả? Cứ tự nhiên! Đằng này đang cho con bú.
Vàng ngẩng đầu nhìn tôi, hai chân trước cào cào xuống nền gạch. Tuồng như gả tự hào lắm. Tôi mất mười lăm năm mới được hai vịt giời. Còn Vàng, chỉ một lần đã lủ khủ sáu đứa con xinh đẹp. Tính theo giá cho con nòi Phú Quốc, mỗi con năm trăm ngàn, nếu nòi Vĩnh Phúc bớt đi còn ba trăm, vị chi vợ chồng Vàng đã có trong tay triệu tám. Nó khoe cũng phải. Mà nói thật, cũng chẳng biết Vàng khoe, hay Vàng mách tôi: xứ của Vàng, người ta chuộng món “hạ cờ Tây”, tới mức, giống nòi Vĩnh Phúc khôn là thế, trung thành là thế, mà hở anh chị khuyển nào lớn lên, cũng đem bán tất tật cho cánh… Thôi, vô duyên! Nghĩ bậy Vàng cười cho.
Đang ngắm nghía bầy kim khuyển thì cái samsung trong túi rung lên giần giật. Người “tình” thật sự của tôi gọi tới từ Hà Nội. “Ông tiến sĩ của anh đã về Thăng Long, làm quái gì đấy, ở tờ báo quái gì đấy. Số di động là 017.506102. Lão đang tá túc nhà em gái”.
À, cái gả Thiên Lôi đánh không chết. “người về cỏ mọc lối cà sa, nắng vẫn gầy khô dưới bí bầu”. Hắn viết câu thơ ấy trong bài thơ nào tôi không nhớ, chỉ nhớ hắn thích ăn cá rô ron, ăn cà bát chấm mắm tôm, ăn bầu dục chần nước sôi; rượu nốc như hủ chìm.
Có ai như hắn.
Hừng đông đi ăn phở, gọi cốc rượu đổ ngay vào tô phở. Gọi cốc nữa, ực một phát, rồi gọi thêm cho tôi và hắn mỗi người một cốc. Hắn nói là nạp điện. Hắn nạp điện buổi sáng năm cốc mới đủ khí. Bắn thêm điếu thuốc lào. Nuốt khói vào bụng. Ngửa mặt, dim mắt chừng nửa phút, mới thở hắt khói ra, nói: “Hôm nay đếch viết. Toàn chuyện nhạt phèo, phí chữ làm quái gì!”.
Tôi nghiệm ra rằng, mỗi khi hắn đã nói thế, thì ngày hôm đó không rượu cũng bia, dứt khoát không phải ngày chữ nghĩa. Như cái hôm nạp điện ấy, hắn kéo tôi ra chợ Láng Trung, mua một lúc hai cân ốc nhồi, một con cá chép hơn cân. Tất cả đều rinh về phòng Như Bình, hành người đẹp dùng nồi cơm điện luộc ốc, nấu lẩu cá cà chua. Chưa xong. Hắn còn rinh về dĩa chó luộc. Ngồi xệp xuống nền gạch, bắt đầu nốc tì tì từ trưa tới tối. Chữ nghĩa tất nhiên là không thể thòi ra được, chỉ thòi ra toàn chuyện tào lao.
Đầu tiên là chuyện bạn hắn vừa xong cái kịch bản phim truyện. “Mẹ nó! Thế mà cũng kịch bản. Mua gian bán lận. Tham ô tham nhũng. Tình địch tay ba tay tư. Giỏi sao không viết về cơ chế rậm rịt những khúc mắc, nhũng nhiễu. Tớ thì sổ toẹt vào thứ kịch bản vô hồn. Chữ nghĩa thánh hiền, không phải bạ đâu cũng phung phí bừa bãi. Mà sao thiên hạ ngày nay, ở đâu người ta cũng khoái khoe sang khoe giàu. Phim ảnh bởi vậy, rặt tương ra xe hơi, nhà lâu, chân dài, váy ngắn. Người mẫu thì đóng phim cái gì! Đi đứng, ăn nói còn không xong. Cứ vận bikini vào cho người ta chụp hình mà sống!”.
Hắn bắt đầu hằn học.
“Ly rượu ngày xưa rượu tình rượu nghĩa, ly rượu ngày nay đù má nó pha cồn”. Chẳng biết hắn học được cổ nhạc từ đâu, chỉ biết giọng ca nhừa nhựa của hắn, giả giọng Nam Bộ mắc cười. Vậy là đêm nay, hai giờ sáng, thế nào hắn cũng thức. Hắn thức với cuốn triết học cổ của Nigch, mà hắn vớ được ở chợ sách vỉa hè, trên bờ sông Tô Lịch. Sách chợ trời nhưng không hề rẻ chút nào. Gả trung niên để ria mép khôn thành thần. Cuốn sách cũ sì cũ sịch, gả hét tám mươi nghìn, tán tỉnh gãy lưỡi mới bợ được với giá năm chục. Hà Nội thiếu gì trường đại học, thiếu gì người đọc sách, nghiện sách. Hắn không mua thì cũng sẽ có người đến ẵm đi ngay. Nigch cơ mà! “Đến với đàn bà phải cầm ngọn roi”. Phần bàn về thơ, Nigch đã nói như thế. Có gì đâu mà hắn khen nức nở. Ca dao ta có câu: “Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”. Dạy con dạy vợ đây là dạy bằng roi chứ còn gì. Nigch hơn thế nào được ông bà ta từ đời tằng tổ. Nhưng Nigch là người Đức, còn ông bà ta là người Việt. Hắn gân cổ cho rằng, triết lý phương Tây mà gần với phương Đông, thế mới tài. “Tài! Tài thật! Tiên sư ông Nigch!”.
Con bé hơn tuổi đang ngồi chơi con búp bê biết khóc, nghe hắn hét váng lên, “Tài! Tài thật!”, liền bò đến, cầm con búp bê nện lên đầu hắn nghe cái cốp. Hắn đưa tay xoa đầu, nơi nổi cục u to như hột mít, cười sằng sặc. “Nhím con xù lông, mày giống mẹ mày như đúc”. Như Bình đang ngồi viết trên giường, cúi xuống, nạt: “Nhím, hư nào!”. Liền đó lại cốp một tiếng. Anh bạn ngưỡng mộ Nigch của tôi lĩnh thêm một cú nện ra trò. “Ái chà! Cái con Nhím đáo để này, mày ghét tao hay ghét Nigch, hả?”. Con bé phá ra cười khoái chí. Chả gì nó cũng đã tương được lên đầu ông nhà thơ “cỏ mọc lối cà sa” hai đòn chí mạng.
Nhét cái samsung vào túi, vừa lên tới lưng chừng dốc, lại thấy nó rung lên giần giật. “Ông ra hồi nào? Sao không gọi? Xuống Hà Nội đi! Vừa kiếm được mấy con cà cuống. Ông xuống, tôi bảo con Bích mua bánh cuốn Thanh Trì, làm tiết canh ngan. Đừng có mà lười! Xuống ngay đi!”. Chưa kịp trả lời, gả si tình triết học Nigch, đã cúp máy cái cụp. “Tài! Tài thật! Tiên sư ông!”.
Tôi tìm lên phòng số 10 nhà lớn, hỏi xin anh Bắc Sơn ít giấy với hai cây bút bi, anh đang ngồi viết tiếp cuốn hai, tiểu thuyết “Cha con và luật đời”. Chỉ đống giấy và đống bút trên bàn, anh nói: “Lấy bao nhiêu thì lấy. Tha hồ cho ông viết cả mười lăm ngày thỏa sức”. Làm sao tôi có thể viết hết chừng ấy ngày. Tôi không xuống Hà Nội, gả si tình triết học, lại chẳng nện cho tôi một trận, theo kiểu con Nhím đã nện gả hay sao. Thơ của một ông thuộc bậc thầy về thơ, mà hắn còn dám chê là vè. Hắn nện thẳng một bài trên báo đàng hoàng. Hắn cũng đã nện tôi một đòn về truyện “Hun hút suối Giàng””, mà tôi viết cả tháng mới xong. “Ông đếch hiểu gì về Tây Bắc! Bỏ mười ngày theo tớ lên Hà Giang, tớ cho ông biết thế nào là suối Giàng. Không biết thì đừng có mà bịa. Bút sa gà chết. Tớ đã can mà ông còn liều mạng đăng càn trên báo!”. Thế. Thế làm sao tôi viết hết mười lăm ngày.
Ngẫm sự éo le sụp bẫy của mình, tôi phàn nàn với Bắc Sơn: “Nhà sáng tác Đại Lải ngon thiệt! Nhưng mà nản quá! Chẳng vi tính, chẳng dịch vụ. Muốn mua thứ gì cũng mười nghìn xe ôm đi, mười nghìn xe ôm về, cách năm cây số, tận dưới Xuân Hòa”. Bắc Sơn cười. “Thì ra sân tenif tám trăm triệu mà thư giãn, có điều phải mua cây vợt, mua banh lông, chứ ở đây họ chỉ có độc một cây vợt của tư. Còn cần gì cứ nhờ nhà bếp. Sáng nào chả có người đi chợ”. Lại nữa. Cái ông tối ngày chúi mũi viết văn này, ông có biết gì ngoài chữ nghĩa. Cái thú đi mua đồ là cái thú được đi chợ. Được ghé chỗ này chỗ nọ, được nghía qua nghía lại rửa con mắt. Gởi người ta thì còn nói làm gì. May mà ông tóc bạc vỗ vai tôi: “Xe anh đấy. Lấy mà đi. Lấy lúc nào cũng được”.
Tôi điện cho thằng bạn ở Vĩnh Phúc, rũ nó xuống Hà Nội. Anh ta từ chối thẳng thừng. “Chiều tôi đem rượu lên ông. Hà Nội thì hơn gì Đại Lải. Ở đây có núi này, có rừng này, có cả sự yên tĩnh này. Về Hà Nội hít khói xe à? Quên đi!”. Lại thế nữa. Anh bạn Việt Hùng của tôi cũng là chàng lãng tử, từng một người một “ngựa”, chu du một vòng Tây Bắc hơn hai nghìn cây số. Tôi quen anh ở Trại sáng tác Kiên Lương. Bấy giờ anh ta cũng phóng xe săn ảnh ào ào cả ngày. Đêm nào cũng về Trại lúc tám, chín giờ tối. Chẳng cần cơm nước gì, chỉ cần có chai rượu và dĩa mồi. Tất nhiên anh ta phải đập cửa phòng tôi, lôi tôi ra khỏi bàn viết. “Uống đi, tôi kể chuyện hôm nay cho mà nghe. Đáng lý ra ông phải mua bản quyền của tôi, đằng này tôi đãi ông, ông lãi quá còn gì”. Anh ta kéo tôi ngồi xuống bàn. “Chó Kiên Lương hiền bỏ mẹ! Hiền hơn cả bà Tiên, ông Bụt. Thấy người không thèm sủa, chỉ hí mắt nhìn một cái, rồi nằm im như phỗng. Phải chó quê tôi, lớ ngớ nó táp cho một miếng, coi chừng mất cả tháng trật mông để người ta tiêm thuốc”. Có lẽ anh ta nói phải. Nhớ năm nào cùng Pờ Sảo Mìn đi Phú Thọ, thăm nhà thơ Ngô Kim Đỉnh. Dưới chân cầu thang lên lầu kiểu tấm xếp, có xích con chó đen thùi lùi, to như con bê. Thấy người, dù chủ nhà đã nạt nằm im, nó vẫn chồm tới, sủa ầm ầm như sủa trộm. Nhà thơ Song Hảo đi giày da mõm dài, vậy mà qua lỗ hở tấm xếp, con chó vẫn táp lủng mũi giày. Thì ra chó cũng như người, cũng có hiền có dữ. Như con Vàng bên hồ Đại Lải. Chắc chiều phải xuống thăm bầy con của nó. Biết đâu đợt này mình lại thành công nhờ chó.
Nhớ chiều qua, sau bữa cơm, tôi với anh Hoàng Dân ngồi nán lại xem ti vi, lúc ra về, gặp con vện bô nằm nơi bậc thềm lên xuống. Thoắt một cái, nó vùng ngay dậy, nhe nanh gầm gừ. Chị bếp trưởng phải nạt, nó mới nhường lối cho mà đi. “Chó Nhà sáng tác chúng em ranh lắm. Ban đêm, ai ăn mặc đàng hoàng tươm tất thì không sao; ai ăn mặc lùi xùi, nhớn nha nhớn nhác thì coi chừng”. A, lại còn thế nữa. Chó cũng biết phân chia giai cấp, phân biệt hạng người. Nhưng… chẳng lẽ cứ ăn mặc tươm tất thì đàng hoàng, còn ăn mặc lùi xùi thì đầu trộm đuôi cướp. Tối nay muốn lên nhà lớn xem wolr cup, chắc phải đóng bộ complé, thắt cà vạt cho chững chạc. Chứ cứ lùi xùi như mình, đêm qua con vện không táp cho một miếng, cũng là phúc tổ ba đời, cho cái thằng đi dự Trại mà không chịu sửa sang râu tóc.
Ấy đấy. Tôi đã từng nuôi chó bao nhiêu lần, bao nhiêu lần. Chó Tây có, chó Ta có. Fox nhỏ như cổ chân có, đốm lai Porte Ăng Lê có, lông xù bông Nhật Bản có, lông xù bông Bắc Kinh có… Mỗi con mỗi tính, con nào cũng khảnh như công chúa xứ Ba Tư. Nuôi thì nuôi, chứ tôi chẳng hiểu nuôi chúng để làm gì, ngoại trừ cứ phải suốt ngày lo cho chúng. Từ miếng ăn, giấc ngủ, đến tắm rửa và dẫn chúng đi ị vào mỗi sáng. Vợ tôi phán: “Cho biết nhé!”. Cũng phải thôi. Có với nhau hai mặt con, mà tất tật việc chăm nuôi săn sóc con cái, chỉ một tay vợ tôi quán xuyến. Với lũ chó thì đừng hòng. Vợ tôi ghét chó như ghét giặc. Nhất là cái tật lũ chó con hay tè trong nhà. “Khai quá đi thôi!”. Vợ tôi nhấm nhẳn. Tôi hiểu ngay ra phận sự của mình. Dầu gì tôi cũng đã tậu chúng về nhà với giá bạc triệu trở lên. Tôi không lo cho chúng thì còn ai vào đây. Ơn trời! Cuối cùng thì tất cả lũ chó ngoại tốn kém và khảnh tính ấy, đều bị lũ trộm chó cuỗm đi bằng trăm mưu ngàn kế. Xót ruột mà sướng.
Bây giờ ở nhà tôi chỉ còn mỗi con Mino đen tuyền, xin được từ anh chị Tư quán nhậu. Con này to lớn bề xề, lông dày, tai to và dài rũ xuống. Nó là con lai giữa giống mặt cọp Hoa Kỳ, với chó ta truyền đời của dân tộc. Lúc nó còn nhỏ, chuyện hốt phân, lau nước tiểu, tất nhiên là chuyện thường ngày ở huyện của tôi. Vợ tôi chừng nào mới chịu nhúng tay vào ba vụ đó. “Cho biết nhé!”. Điệp khúc ấy ngân lên mỗi ngày, tôi bấm bụng hứng chịu. Nhưng nào chỉ có thế. Giày dép trong nhà nó tha biến đi đằng nào. Còn giày dép thiên hạ thì nó ngoạm về nhà. Không ngày nào tôi không bị mắng vốn. Khổ nhất là hôm thủ trưởng hạ cố tới thăm, lúc ra về, ông tái xanh cả mặt, bởi đôi giày Italia giá bạc triệu, bị con Mino gặm nát gót một chiếc. Cơ sự này thì tôi còn đường binh nào nữa, để xin nghỉ dài ngày đi dự Trại sáng tác hàng năm.
Nhớ tới con Mino tai họa, sợ vợ bỏ bê nó tội nghiệp, tôi nhấn số samsung gọi về nhà. “Em hả? Nhớ cho cá ăn mỗi ngày ba lần. Ba ngày thay nước một lần”. Vợ tôi biết tỏng tâm địa của tôi là lo cho con chó, nhưng bả lại nhắc khéo: “Thay đồ nhớ kiểm tra túi áo, túi quần, đừng có mà ngâm nước cái bóp đấy nhé! Anh vắng nhà, con Mino bỏ đi rong theo đực mấy ngày nay. Xích cổ thì nó rên không ngủ được. Cái giống gì động đực mà ngu thế. Không khéo lại ăn bả chuột, ăn vòng dây thòng lọng”. Biết ngay là bả muốn cảnh tỉnh tôi chuyện bia bọt nhà hàng, chuyện bạn bè làm báo hú hí với nhau. Đã có lần bả vớ được cái nokia tôi bỏ quên ở nhà, phát hiện ra một loạt tin nhắn của cánh không mọc râu. Tôi tởn gần một tháng. Hễ cứ đọc xong tin nhắn là phải xóa cấp kỳ. Cũng như thư điện tử. Bả không rành vi tính, nhưng đứa con gái lớp năm của tôi, dẫu tôi có khóa máy cỡ nào, nó cũng mày mò giải mã ra tuốt tuột. Nó biết tôi xài ADSL thuê bao trọn gói, nên nó có sá gì chuyện ngồi trước máy cả ngày. Nó là con mắt, lỗ tai điện tử của mẹ nó. Nó vòi gì mẹ nó cũng chịu. Truyện của tôi nó chẳng thèm liếc đến, còn Hary Porte, nó đọc không sót cuốn nào. Thời điện tử, người lớn trẻ con gì, nhất nhất đều sống, lao động, học tập, suy nghĩ và tôn vinh mọi điều theo quảng cáo. Giá tôi có tiền quảng cáo… Khổ thế!
Yên trí bà vợ không bỏ bê con Mino, tôi ngồi xuống bàn viết. Nghĩ mãi không ra cái gì có thể viết, tôi cầm tờ báo, đọc lại “A và E” của Hoàng Thủy Hương. “A là âm của loài người, là âm bản năng ban đầu, là ngôn ngữ sinh học đặc chủng mang tính giống loài, khác hẳn con ngựa hý, con voi rống, con sư tử gầm”. Đúng quá đi chứ! Tại sao lại mở đầu đầu cách dạy chữ cho trẻ con bằng E, BE. Chẳng những trẻ đánh vần nghe như dê kêu, mà bà con Tày, Nùng còn xấu hỗ bịt lỗ tai, khi thấy cái “chuyện ấy” của giống người cứ bị phơi lên trên bảng, rồi thi nhau đọc gào lên.
Bí tới tận cùng bấn bí, tôi móc con di động đời thứ năm của mình khỏi túi, gọi ngay cho gả si tình triết học Nigch.
- Mày hả? Mai tao xuống. Sáng cắt cổ ngan là vừa. Kỳ này tao không viết suối Giàng đâu, tao viết về sự biến mất của sông Hát Môn trong lòng Hà Nội.

Đại Lải, ngày 2 tháng 7 năm 06
HT.T.

một khoảng không cuộc đời

Truyện ngắn :

MỘT KHOẢNG KHÔNG CUỘC ĐỜI
Hồ Tĩnh Tâm
(tặng thầy Hoàng Dân CĐSP Hà Nội và bè bạn)

1.
Đêm mưa gió ấy, hình như Hồ Đại Lải không ngủ thì phải. Tiếng sóng cứ cồn cào- cồn cào. Tiếng rừng cứ nấc lên- nấc lên. Day dứt và thao thiết. Sấm rền rỉ ở bên kia đồi. Mưa rỉ rắc. Những cây thông lá nhọn sũng ướt, mềm lả ra. Mặt đất cũng mềm. Mềm như thịt da người đàn bà sau cơn hoan lạc, được vùi trong chăn ấm.
Thầy Tuấn nói:
- Tớ 59 tuổi. Chinh chiến ở Trường Sơn và Nam Lào mấy năm. Trong người ba vết sẹo, dạ dày cắt bỏ một nửa. Nhìn còn được không?
Tôi nhớ bài “Thị trường” trong tập thơ “Khoảng không” của thầy. Điệp khúc “những cô bé khỏa thân” cứ chờn vờn trước mắt. Tất cả là bốn lần. Bốn lần khỏa thân nhảy múa. “Ngây dại”. “Vật vờ”. “Hoang sơ”. “Quay quắt”. Bốn lần khỏa thân như loài vật. “Uốn éo”. “Oằn mình”. “Quay cuồng”. “Tơi tả”. Tôi không hiểu được nền “văn minh” mại dâm của Thái. Tôi chỉ biết, trời vẫn mưa, vẫn gió. Đêm đen đặc. Cắt cứa đến tận cùng thổn thức.
- Tớ vẫn đọc thơ mình ngay trong giờ dạy. Tại sao không? Tớ làm thơ đã mấy chục năm. Tớ vác cả chiến trường vào thơ, vác cả đời tớ vào thơ. Thơ tớ thật lắm, tại sao không đọc! “Thời gian không màu, nỗi nhớ cũng không màu; nhưng chiếc lá thì cứ xanh rời rợi”. Chẳng biết thơ tớ cỡ nào, nhưng sinh viên của tớ thì thích lắm!
Đêm vẫn mưa. Vẫn mưa. Rừng cây càng ướt sũng ra. Mặt đất càng mềm nhão ra. Sóng hồ Đại Lải càng cồn cào thao thiết.
- Cô bé ấy cứ nhất thiết vòi tớ đi cà phê. Cà phê ở một quán cà phê mà chính tớ cũng không ngờ. Nó hoang sơ đến cháy bùng cảm xúc. “Ai biết chăng thật giả buồn vui, chỉ tình yêu là muôn đời vụng dại”. Đúng vào lúc cô bé ấy nghiêng sang ôm choàng lấy tớ, chợt cất lên tiếng nói nhẹ như hơi sương: “Anh chị dùng gì ạ?”. Trước mặt tớ là một cô bé, non nõn những phần da thịt lộ ra trong ánh sáng mơ mờ, huyễn hoặc và hư ảo. “Ôi! Em chào thầy! Thầy dùng gì ạ?”. Mặt đất dưới chân tớ như tụt xuống- tụt xuống. Vòng tay của cô bé như nhão ra nỗi bẻ bàng. Cả hai đều là sinh viên của tớ, cùng đang học một lớp với nhau. Năm ấy tớ đã 54. Từng trải và đầy kinh nghiệm sống.

2.
Mùa đông bên bờ sông Công thon thót gọi mời một vòng tay xiết. Tôi với cô bé của tôi ngồi trong góc khuất trần thế. Cả hai lạc giữa thời gian vô cùng vô tận. Màn đêm phủ xuống tấm khăn voan của mộng mơ và khát vọng. Sông Công ơ hờ, chập chờn, vô cảm. Bầu tinh vân lạnh lẻo như sắp rơi òa xuống.
Năm ấy tôi cũng 54 tuổi. Độc thân với cây đàn ghi ta, trong một ngôi nhà thèo lảnh dưới chân ngọn đồi bát úp. Người đàn bà của tôi đã phiêu dạt nơi nào. Đứa con gái bé bỏng của tôi cũng phiêu dạt nơi nào. Họ bỏ tôi ra đi đã mười năm. Mười năm của trống vắng. Mười năm của đớn đau vật vả. Tất cả là vì tôi. Vì cây đàn của tôi. Vì những giờ lên lớp bằng thơ và nhạc của tôi. Ngoài tất cả những thứ đó, tôi không biết làm gì. Oái oăm thế. Người đàn bà của tôi đã đến với tôi vì tất cả những thứ đó, rồi giũ áo bỏ đi cũng vì tất cả những thứ đó. Nàng đã quá thừa mứa những cung bậc của vòng tay xiết. Nàng đã quá thừa mứa những giai điệu thăng trầm của đói khổ. Ngọt ngào hát ư? Hát thì vạt đâu ra đồ đạc trong nhà. Ngọt ngào ru ư? Ru thì làm gì ra tiền ra gạo. “Con cò gánh gạo bờ sông”. Dưới chân ruộng trước nhà tôi có con cò mồ côi. Chẳng biết trống mái, cái đực ra sao; chỉ biết nó đơn côi như một dấu chấm, trắng toát nỗi đau đời. Càng đau hơn khi nó ủ rủ gục đầu trong mưa rào tháng hạ. Ngày qua ngày, tháng cũng theo nhau, đi ngang qua sự trống vắng lạnh lùng của con cò đơn độc ấy. Tôi với nó hợp thành hai dấu chấm song song. Tôi là dấu chấm ở trên. Nó là dấu chấm ở dưới. Chúng tôi mở ra những dòng chảy của ngôn từ và giai điệu. “Ta ở trong nhau suốt cuộc đời chẳng biết, nụ hôn nồng nàn rướm máu buồn vui”.
Thế rồi con cò ấy lạc đi đâu, hay mất đi đâu. Hay đã rục xương bởi một viên đạn chì bắn vào đơn độc. Nó bỏ lại mình tôi với nỗi đau giằng xé. “Phải chi tình yêu có thể sống thay cuộc đời, đánh đổi niềm vui cho nỗi buồn dằng dặc”. Người đàn bà của tôi đã không chịu nổi tiếng đàn của tôi. Tiếng đànThạch Sanh giành lại nàng công chúa hóa câm vì thằng Lý Thông đểu giả. Tiếng đàn của tôi thì xua đi một tình yêu đói cơm, thiếu áo. Còn con cò ấy! Vì sao nó đơn côi!? Vì sao!? Vì sao!?.. Nhưng giờ thì rõ ràng nó không còn nữa, không còn hợp với tôi thành hai dấu chấm song song, mở vào đời nỗi niềm đơn độc. Chỉ còn cô bé với tôi bên bờ sông Công, trong góc khuất, trong cuộc chơi trốn tìm mà không ai trốn được. Chúng tôi sẽ thuộc về nhau đến tận cùng máu thịt, nếu như tôi không vụt nhớ ra gương mặt xanh lướt của người đàn bà của tôi, trong cơn oằn mình đớn đau vượt cạn.
Bấy giớ là hai giờ sáng.
Trời đất Bắc Giang chìm trong mưa xối xả. Tôi trùm vợ tôi bằng tấm ni lông của lính. Nàng ngồi sau gác ba ga, người mềm oặt ra vì những cơn đau hành hạ. Tôi đầu trần, chân dép lốp, gò lưng đẩy chiếc xe phượng hoàng giữa mưa tuôn chớp giật. Mưa Bắc Giang như nghiêng trời trút nước. Những lưỡi tầm sét bủa thẳng từ trời cao xuống gò đồi. Sấm gầm như bom pháo trận chống càn ở phía đông thành Cổ. Cứ sau mỗi lần bom pháo điên cuồng bão táp, thủy quân lục chiến từ biển lại trào lên, quạt đại liên và AR15 ràn rạt. Tiểu đoàn tôi đã kiệt cùng sức lực, đạn dược và vũ khí. Lê tuốt trần dưới chiến hào, chúng tôi vẫn kiên cường bám trụ. Từng người. Từng người. Cứ từng người thay nhau ngã xuống. Thủy quân lục chiến vẫn trào lên. Chúng tôi vẫn trụ lại. Cho đến lúc được phép mở đường máu thoát ra. Cả đời tôi, không bao giờ tôi quên được, trận bom pháo như sấm rền chớp giật ở phía đông thành Cổ. Còn bây giờ. Sấm sét cứ lồng lên, xé toạc màn đêm thành trăm ngàn mảnh vụn. Vợ tôi đã không thể chịu đựng được hơn vì quặn đau và sợ hãi. Đúng lúc ấy thì thòi ra cái chòi tre quán nước bên đường. Tôi đã từng uống chè, ăn kẹo dồi chó, hút thuốc Nhị Thanh ở đây. Tôi đã từng hầu chuyện bà cụ tám mươi có hai người con chết trận ở phố Lu thời chín năm chống Pháp. Bà cụ mỗi ngày vẫn từ làng ra bán nước chè xanh trong cái quán tùm hụp bên đường này. Họa vô đơn chí ư! Phúc bất trùng lai ư! Chỉ cái quán của cụ bà, xiêu vẹo trong gió mưa là có thật.
Vợ tôi nằm trên tấm ni lông của lính. Thân hình nàng co giật. Bụng cồn lên từng cơn cuồn cuộn. Nước ối túa ra thành vũng. Sền sệt. Nhừa nhựa. Rồi thì máu. Chao ôi, biết bao nhiêu là máu. Mắt tôi mờ đi. Lòa đi. Đầu tôi căng nhức. Tôi đã từng chứng kiến biết bao nhiêu là máu, phún ra từ thân thể bạn bè, nhưng đây là máu của người sẽ sanh hạ cho tôi, một phần những giọt máu của tôi. Đổ hết máu ra ngoài trái tim thì làm sao mà sống! Lồng ngực tôi thình thình như đang nện trống. Ong ong niềm kinh hãi.
Mưa vẫn tuôn.
Gió vẫn giật.
Sét vẫn bổ.
Sấm vẫn gầm.
Trong cuồng loạn của đất trời đen đặc, tôi đã móc được công chúa của tôi ra, từ máu và nước vàng sền sệt. Nó nhẽo nhợt, nhăn nhúm, vấy đầy máu và nước ối. Hoảng loạn đến cùng cực, nhưng tôi vẫn nhớ ra thiên chức đàn ông của “thằng chồng” có học. Nằm xoài xuống đất, tôi dùng hàm răng của mình cắn rốn cho con. Tôi lột tấm áo lính của mình, quấn lấy đứa con hon hỏn. Vợ tôi lả ra trên máu của mình và nước của trời rưới xuống. Nàng sẽ chết mất. Chết mất. Nếu cơn mưa của trời không đột ngột chấm hết, như một dấu chấm than dập tắt đi tất cả. Nếu bình minh không vụt hiện như một dấu chấm than thúc gọi mặt trời.
Nâng đứa con trên đôi tay lính của mình, tôi vùng chạy ra ngoài, hướng nó về phía chân trời đang ửng đỏ, gào lên: Con ơi! Con là Ánh Dương! Hồ Ánh Dương!
Bỗng hực một cái, mặt trời bật dậy từ dưới một quầng mây nào đó. Xoay người lại túp lều, tôi thấy rỡ ràng chiếc cầu vồng cong vun vút. Một cánh cò lẻ loi từ đó bay chếch về phương Nam.

Kể tất cả điều đó cho thầy Tuấn nghe trong đêm mưa bên hồ Đại Lải, nhưng tôi không dám chắc rằng, ông bạn giáo từng đi lính, từng viết văn của tôi, sẽ tin tất cả. Cánh văn chương vẫn bịa ra những chuyện lãng mạn nhất, khủng khiếp nhất. Cánh phê bình gọi đó là bịa nghệ thuật. Cánh giáo viên thì phẩy tay, thật hay bịa gì cũng là hình tượng trong văn học, cứ phải có trong giáo trình hướng dẫn giảng dạy mới dạy được. Riêng với tôi, đó là nỗi đau và tình yêu có thật. “Có một ngày ngỡ như trời đẹp hơn, dù gió mưa có dập vùi tơi tả, dù ngày ấy ta đã từng gục ngã, trong cơn mê mang bảy sắc cầu vồng”.
Tình yêu của tôi đốn gục tôi có thể từ ngày ấy.
Và… nếu điều ấy không có thật, làm sao tôi có thể trốn chạy khỏi vòng tay của cô bé đang run lên thổn thức. Cô bé ấy còn trẻ lắm. Cô là sinh viên của tôi. Vầng trăng mùa đông của tôi. Nỗi đau thắt của tôi, “… đã thành hoài niệm, nguyên sơ như khát vọng thuở ban đầu”.

3.
Tôi đọc to lên “Khoảng không” của thầy Tuấn.

Nước mắt người anh hùng
Nghẹn lại rưng rưng
Ở trang cuối cùng
Giữa những năm đớn đau và cao cả

Tại nhà sang tác Vũng Tàu, tôi gặp người bạn giáo viết văn từ Sài Gòn xuống. Cô ta phì nhiêu, màu mỡ đến mát rượi thịt da của người còn sung sức. Cô rủ tôi xuống biển tắm đêm. Sóng cồn lên. Biển vồng lên. Ngực biển căng phồng thổn thức. Hai chúng tôi và biển sóng. Chúng tôi vùi mình trong biển mặn. vầng trăng mỏng như lá thép, uốn nhẹ dáng thuyền tình mỏng mảnh, bồng bềnh trôi trên cánh đồng mây nhẹ hẩng. Im lặng như trời mà rùng rùng như sóng. Sóng biển va đập, khiến da thịt chúng tôi lúc lúc lại chạm vào nhau. Sóng dội từ trong lòng, khiến tôi nhớ về người đàn bà đã bỏ tôi ra đi cùng đứa con bé bỏng. Hai thứ sóng ấy hành hạ tôi đến tận cùng nỗi đau nhân thế.
Chúng tôi trở về tiền sảnh phòng lễ tân khi trăng non đã lặn. Ở đó, người bạn giáo viết văn, nắm lấy tay tôi và nói: “Tôi gặp Thủy ở Gò Vấp. Cô ấy mở quán cà phê. Vẫn mỏng mảnh như cây thủy liễu của anh ngày nào. Ánh Dương đang là sinh viên năm thứ hai ngành kiến trúc. Nó đẹp lắm. Nhưng nói thật nhé!.. Nhìn hai mẹ con côi cút, cứ ứa cả nước mắt vào lòng. Số cầm tay của Thủy đây!”.
091… Những con số vô hồn dày vò tôi đã bao năm nay. Theo lối ký âm số của người Hoa, tôi từng hằng đêm bấm rung lên thành giai điệu cút côi của đứa con bé bỏng. Những con số ấy, mỗi ngày mỗi mưa xuống đời tôi từng giọt đắng. Một là Đô. Hai là Rê. Ba là Mi. Bốn là Fa. Năm là Sol… Con ơi!.. Ánh Dương của cha mọc từ cái quán tre của bà cụ tám mươi đơn chiếc. Ngày bà cụ qua đời, cha ẳm con đưa tiễn. Con học cha thả vào huyệt mộ nắm đất. Nắm đất nhỏ nhoi của con, cùng với đất đá Phổ Yên, đã phún trên mộ cụ bà những bông cỏ may, may vào tâm thức của cha, giai điệu của chia ly đầm đẫm nỗi buồn nhân thế.
Trong từng tiết dạy, tôi vẫn thường bấm rung lên giai điệu 091… và hát lên rười rượi:

Lẫn trong thời gian chia ly, gặp gỡ
Nước mắt rơi vào giữa tiếng cười
Ai biết chăng thật giả buồn vui
Chỉ tình yêu là muôn đời vụng dại

Cô bé ấy, cô bé ngồi trong cùng của dãy bàn cuối cùng ấy. Dường như cô đã khóc rất nhiều, rất nhiều, mỗi khi nghe giai điệu ấy. Thẳm sâu đến hun hút một nỗi buồn xẻ chia, tâm cảm. Đã một đôi lần tôi bắt gặp những ngón tay thon thả của cô, chạy rã rời trên bàn phím, giai điệu 091… của tôi. Thế rồi một hôm tôi đã nghe cô hát: “Ai bết chăng thật giả buồn vui, chỉ tình yêu là muôn đời vụng dại”. Để chạy trốn sự yếu đuối của mình, tôi đưa cô bé ra sông Công, nơi con sông sắp òa đổ vào hồ núi Cốc, dệt nên huyền thoại chàng Cốc nàng Công.
Khi vòng tay đã lịm chín, khi ngọn lửa linh thiêng sắp không cầm lại được, tôi bàng hoàng nhớ lại đêm mưa gió điên cuồng chớp giật. Giai điệu đã giết tôi bằng “khoảng không” đầy ngờ vực, của bờ vực tâm linh một người thầy, một người đàn ông trống vắng đã mười năm. Trong tôi âm âm đến nhói lòng, giai điệu vô vi Trịnh Công Sơn đã hát:

Đường xa mỏng mộng vô thường
Trái tim chợt tỉnh tôi nhường nhịn tôi

4.
Đêm mưa gió ấy, hình như hồ Đại Lải không ngủ thì phải. Tiếng sóng cứ cồn cào- cồn cào. Tiếng rừng cứ nấc lên- nấc lên. Day dứt và thao thiết.
Thầy Tuấn nói:
- Khi bức xúc nửa chừng trang viết, tớ ngồi nhắm mắt lại, hồi tưởng dòng chảy của thời gian, cho đến bao giờ vụt hiện một tứ gì đó, mà truyện ngắn không chở nổi, tớ chép vào sổ tay để neo lại. “Lẫn trong thơi gian phấp phỏng tình cờ, như cơn gió lành ngơ ngác trong mơ”.
Tôi nắm lấy hai câu thơ ấy, bước ra khỏi phòng nhà biệt thự D4. Hai cây xoài xõa lá, hứng rủ rượi mưa trời. Hai cây mít chít chiu trái mọng đầy gai, tựa vào nhau chịu từng trận gió. Nhói trong lòng câu thơ của Huy Cận: Gỗ mít đỏ tươi như thân người xẻ dọc.
Phải chăng người đàn bà của tôi đã xẻ dọc đời tôi làm hai mảnh. Mảnh đớn đau của ông thầy đói nghèo thời bao cấp. Mảnh tự ái đến lồng lên của anh chàng nghệ sĩ nửa mùa, dại dột chui đầu vào thòng lọng của nghề dạy học.
Ngày ấy, người đàn bà của tôi là sinh viên của tôi. Cô sinh viên nghèo, đến từ một đồi chè tuyết Hà Giang. Ngay bài giảng đầu tiên về thế giới của âm thanh thành giai điệu, đôi mắt mở to hoài vọng của nàng đã đốt cháy tim tôi.
Tôi. Chàng sinh viên Khoa Trắc đạc – Bản đồ, vào chiến trường từ mùa hè 72 đỏ lửa. Tôi. Chàng lãng tử cuối cùng của “Bài ca Trường Sơn” thành giáo viên dạy nhạc. Tôi. Người đốt cháy trái tim xuân thì của nàng suốt ba năm để biến nàng thành vợ. Chúng tôi đã có những năm tháng ngọt ngào hạnh phúc, những năm tháng nếm trải gian nan thời bao cấp; chúng tôi đã có những năm tháng dằn vặt lẫn nhau, vì tính lãng tử đời trăng của tôi, tính bốc đồng thiên về thực dụng quá thể của nàng. Và… cuối cùng là sự ra đi của người đàn bà của tôi, chỉ vì chúng tôi không thể nào chia xẻ được với nhau về một vài quan niệm sống.
091… dãy số đã hóa thành giai điệu, đang tồn tại trong máy của tôi. Trong cơn mưa Đại Lải đêm nay, những con số bỏng cháy ấy, đã thắp lên chuyện xưa, xui khiến không thể nào chợp mắt.
Giữa lúc chúng tôi đang hết tiền, hết gạo, bỗng lù lù ở đâu hiện ra thằng bạn thời chiến trường lửa máu. Đó là Hoàng Quân, tay súng B40 lì lợm nhất tiểu đoàn. Gương mặt anh ta đẹp một cách đáng sợ, bởi hai bên má, sâu hoắm vào hai lúm đồng tiền, to như đầu ngón tay. Một viên AR15 bay xuyên qua miệng, khi anh ta nhào lên hét xung phong, đã làm nên kiệt tác kỳ diệu ấy. Trong cơn bấn bí không có gì đãi bạn, tôi đã vặt lông con gà mái duy nhất, đang nằm ổ trong chuồng. Nó cũng là con gà kỳ diệu, từng sống qua bốn mùa dịch cúm, từng xù lông đá lại diều hâu. Giết nó là dập tắt niềm hy vọng bầy gà con sắp sửa ra đời. Nhưng không giết, biết lấy gì đãi bạn. Nó đã vượt hàng trăm cây số, tìm thăm tôi. Nó đã từng băng bó cho tôi, cõng tôi thoát chạy ra khỏi vòng tử chiến, dìu tôi vượt qua dòng Thạch Hãn rộng mênh mông. Khổ nỗi, dù đã hầm cả tiếng, thịt vẫn dai nhanh nhách, nhai tới sái quai hàm, vẫn cứ lì ra, không thể nào nuốt được. Bạn tôi phá ra cười. “Đằng nào cũng thế, luộc luôn ổ trứng cho rồi. Trứng gà lộn. Ha ha! Gà lộn! Hết thứ này có thứ khác. Cứ tin thế đi! Đời mà! Khổ quá, tớ đang định tung hê hết để đi buôn đây. Buôn bán thì có gì là xấu. Mình đem về cho người ta cái người ta cần, xấu chỗ nào nào!”.
Hôm ấy, tôi hú mấy anh bạn cùng trường qua chơi. Rượu cắm quán thêm hai lít. Tam Thanh cắm quán thêm hai bao. Nửa tháng sau lĩnh lương tháng ấy, thủ quỹ trường trừ lại hơn phân nửa. Ngươi đàn bà thực dụng của tôi, nghi ngờ tôi có bồ có bịch. Vết rạn nứt bắt đầu toác ra từ đó. Và… theo đường rày vay nợ, tháng nào lương tôi cũng bị trừ hơn một nửa trở lên. Những đồng tiền còm cõi đem về, không cứu nổi cuộc tình thời bao cấp. Cô sinh viên từng si mê giai điệu của tôi, người đàn bà từng dâng hiến cho tôi đứa con nhỏ nhoi trong mưa gào chớp giật, đã giũ áo ra đi trong đầm đầm nước mắt.
091… những con số hằng đêm dằn vặt, dày vò tôi đến lao tâm khổ tứ. Tìm lại ngày xưa ư? Không đời nào! Người đàn bà của tôi đã lạnh lùng như băng giá bỏ đi. Đã cướp mất đứa con nhỏ nhoi của tôi mà tôi yêu biết mấy. Nhưng con ơi! Ánh Dương của cha ơi! Làm sao cha có thể quên đêm mưa gió con ra đời. Nếu bà cụ tám mươi không ra sớm, ai sẽ giúp cha đưa hai mẹ con vào làng? Nếu dân xóm không cưu mang, ai sẽ giúp hai mẹ con qua cơn nguy kịch? Vậy mà mẹ nỡ lòng bỏ qua tất cả! Nỡ lòng dứt con ra khỏi đời cha!
Không mẹ phải tự tìm về! Còn cha?.. Ánh Dương ơi! Con ơi!..

5.
Thầy Tuấn sửa dáng ngồi, khoát tay, dim mắt đọc:

Gió ơi, mi sinh ra làm gì?
Ta sinh ra để thổi cho vui!
Sông ơi, mi sinh ra làm chi?
Ta sinh ra để chảy, thế thôi!
Hoa ơi, mi sinh ra làm gì?
Lửa ơi, mi sinh ra làm chi?

Người ơi, mi sinh ra làm gì?

Những câu thơ khoan xoáy vào đêm mưa hồ Đại Lải. Những câu thơ càng lúc càng khoan xoáy vào tim tôi đến rướm máu. Mười năm người đàn bà bỏ tôi đi. Mười năm biết bao cô sinh viên si tình giai điệu của tôi. Những cô gái đến từ đồng thấp đồng cao. Những cô gái đến từ non xanh núi thẳm. Có cô hoài vọng vào tương lai được dứt bỏ tháng ngày cơ cực, chân lấm tay bùn. Có cô muốn giúp tôi lấp đầy khoảng trống. Có cô chỉ vì chút đam mê cháy lửa tình lãng mạn. Còn cô bé ấy, cô bé ngồi trong cùng ở dãy bàn cuối cùng ấy, cô chỉ muốn dâng hiến cùng tôi. Gọi là gì nhỉ? Sự dâng hiến trắng trong của trinh nguyên ý tưởng? Tôi hoàn toàn độc thân! Tôi hoàn toàn vô tội! Nhưng?.. Nhưng! Cô bé ấy trẻ quá, lại còn đang đi học! Học Nhạc, một môn học đầy “tinh thần” lãng mạn. Vậy thì cô mới hoàn toàn vô tội. Còn tôi, tôi đã 54 tuổi. Đã từng trải và đầy kinh nghiệm sống. Tội lỗi nhất định thuộc về tôi. Năm tháng sẽ trôi qua, sẽ đến lúc cô bé ấy lớn lên, sẽ đến lúc cô bé ấy nhìn ra sự thật. Tòa án lương tâm hành xử tôi thế nào, nếu như cô bé ấy trở thành đàn bà, lại bồng con giũ áo ra đi, dở dang cả một đời con gái? Người đàn bà của tôi đã dứt bỏ tôi đi, là minh chứng. Chỉ còn tôi với cây đàn ghi ta, với mười năm đơn độc. Nhưng… tôi và cây đàn của tôi có tội tình gì? Tội tình gì?..
Con cò đơn côi cũng bỏ tôi mà đi. Giờ này nó ở đâu? Ở đâu? Chắc là nó đã tìm được một nửa của đời mình. Còn một nửa của đời tôi? Còn con gái bé bỏng của tôi? Còn tình yêu của tôi? Còn phẩm giá người thầy của tôi? Còn bao nhiêu năm tôi vùi mình trong lửa máu? Lẽ nào tôi đánh mất! Lẽ nào tôi vứt bỏ! Lẽ nào! Lẽ nào!
Bị nung cháy bởi những dòng ý tưởng ngạt thở ấy, tôi đứng dậy, kéo tay dẫn cô sinh viên trẻ trung về lại ngôi nhà dưới chân ngọn đồi bát úp. Biến nồi cơm nguội thành nồi cháo thịt bằm, với thật nhiều hành và tiêu, tôi dọn lên bàn cho cô sinh viên của mình. Còn tôi, tôi lôi cây đàn treo trên tuờng xuống, lục trong đống tài liệu lưu trữ mốc meo và bụi bặm, cuốn đọc tấu ghi ta, những bản nhạc tôi chép tay từ thời mới ra quân, chuyển ngành đi học. Cuốn nhạc này tôi đã từng chép một cách hăm hở, khi tôi mới từ rừng sâu về thành phố. Bấy giờ tôi chỉ biết cả ngày tha thẩn ở các hiệu sách tư nhân để lục lọi, mượn mọc, và ngồi lì một góc để chép. Tôi chép say mê đến quên cả cơm trưa, quên cả cơm chiều, đến phải mua bánh mì không ngồi ăn tại chỗ. Nhiều chủ tiệm sách đã thông cảm, đem cho tôi ca trà đá, hay một dĩa trái cây, hay một dĩa bánh gì đó. Nó là nỗi đam mê một thời trai trẻ của tôi, tình yêu một thời trai trẻ của tôi. Vậy mà tôi đã quên bẵng suốt mười năm.
Khi dốc ngược cuốn sách để giũ bụi, một tờ giấy học trò đã rơi ra. Nhặt lên, tôi nhận ra nét chữ của vợ tôi, của người đàn bà của tôi. Nhiều dòng chữ bị nhòe loang nét bút. Có lẽ nàng đã khóc khi viết những dòng này. “Em giải phóng cho anh, để anh tha hồ bay bổng suốt ngày cùng giai điệu, tha hồ ôm đàn ca hát suốt ngày suốt đêm với bạn bè. Cuộc sống sẽ không có sự lựa chọn, nếu chúng ta và con cái chúng ta không đủ ăn, đủ mặc hàng ngày. Em không muốn là chiếc bóng cản trở niềm đam mê của anh. Em sẽ đi xa. Đi thật xa để nuôi con và để giải phóng cho anh. Hãy tin rằng, em và con…”. Tôi không thể tin được vào đôi mắt của mình. Mặt đất dưới chân như sụp xuống. Sụp xuống. Đất trời như quay cuồng chóng mặt. Đêm đen đặc, như dồn nén cả màn đêm mà ép xuống- ép xuống tôi đến thóp thoi, dằn vặt. Quẳng lá thư lên mặt bàn, tôi để mặc cô sinh viên trẻ trung muốn làm gì thì làm, muốn ngủ đâu thì ngủ. Còn tôi, tôi dốc ngược chai Nàng hương, tu một hơi tới ngạt thở, rồi ôm cây đàn, đập cả bàn tay lên sáu sợi thép, cào cả năm ngón tay lên sáu sợi thép, nấc lên giai điệu.

Giữa cuộc đời như gió thổi, sông trôi
Sẽ còn lại muôn đời
Những câu thơ
Và những lời ca thấm đầy nước mắt

Khi hàng âm cuối cùng vừa tắt, tôi giáng cả bàn tay xuống gần ngựa đàn. Sáu sợi dây đàn đứt phựt.
Cô sinh viên trẻ trung ngồi thả chân trên giường, ấp cả hai bàn tay lên mặt, khóc nấc lên.
- Thầy ơi!..
Lá thư của vợ tôi rung bần bật trong đôi bàn tay nhỏ nhắn, đang ấp trên gương mặt trắng nhợt, đầm nước mắt.


Nhà sáng tác Đại Lải, 2.7.06 – Vĩnh Long, 16.8.06
H.T.T.
0913.648732
Ghi chú: tất cả thơ in chữ nghiêng đều rút trong tập thơ “Khoảng không” của Hoàng Dân- CĐSP Hà Nội.

Cu Đồ cháy mấn

Truyện ngắn:
CU ĐỒ CHÁY MẤN


Hồ Tĩnh Tâm

Năm 1965, tôi theo gia đình đi sơ tán ở xã Nghi Xuân.
Một hôm, vào buổi trưa, lúc cả nhà tôi đang ăn cơm, đột ngột xuất hiện một người đàn bà mặc cái mấn màu nâu. Bà ta khoảng chừng ba mươi tuổi. Mới đầu, bà ta xổ ra một tràng tiếng Tây. Thấy cả nhà tôi ai cũng há mồm ra ngơ ngác, bà ta cười mà nói:
- Nỏ biết tiếng Tây à? Cho xin đọi cơm!
Mẹ tôi bới cơm và gắp cho bà ta một khúc cá thu. Bà ta cầm lấy cái môi, tự chan canh, rồi bắt đầu và cơm lia lịa. Khi cơm hết, bà ta lại tự động xúc cơm cho vào bát; rồi húp ào hết nước canh. Hết canh, bà ta lại tự động chan canh cho mình. Ăn hết hai bát cơm, bà ta phủi tay đứng dậy. “Cơm không độn ngô, độn khoai, ngon lắm!”. Nói xong câu đó, bà ta múa múa hai cánh tay, bỏ đi ra đường.
Mẹ nói:
- Cu Đồ cháy mấn. Khôn tổ trời!
Từ đó, tôi đâm ra hay nghĩ về người đàn bà điên ấy.
Anh Trí, ở trọ gần nhà, nói với tôi:
- Cu Đồ là người có học trường Tây. Học nhiều qúa mà điên. Bây giờ bà ta chỉ nhớ tiếng Tây, chỉ hay nói tiếng Tây.
Vào một đêm sáng trăng vằng vặc, anh Trí rủ tôi lấy xe đạp, đạp ra xem cầu Cấm. Cầu Cấm lúc bấy giờ, hầu như trưa nào cũng bị máy bay ném bom; thỉnh thoảng còn bị đánh cả vào ban đêm. Mức độ đánh phá rất quyết liệt. Máy bay quần quần dươi cửa biển, quần quần dưới Cửa Lò, rồi chia thành nhều tốp bay tới bắn phá và dội bom. Chúng bay bổ nhào từ hướng mặt trời, để bộ đội ta bị chói mắt, khó nhắm bắn. Có khi chúng bay sát rạt theo lòng sông, để tránh bị ra đa phát hiện. Bay thấp tới mức, nước dưới sông cuộn lên thành sóng trắng xóa. Khi gần tới cầu, chúng mới bay vọt lên, rồi cắm xuống cắt bom và bắn rốc két. Bộ đội đặt pháo cao xạ trên núi, bắn trả rất quyết liệt. Đi xem cầu Cấm là một việc liều mạng. Nhưng vào cái tuổi tôi, được đi xem nơi nguy hiểm là oai lắm, thích lắm. Hơn nữa, tôi lại tin vào anh Trí, bởi anh đã học tới cấp ba, đã được kết nạp vào Đoàn.
Hai chúng tôi cắm cúi đạp xe trên đường số một. Nhiều đoạn đường bị bom, đất đá lổn nhổn, xe xóc nảy như phi ngựa. Càng gần tới cầu, tôi càng sợ. Lỡ máy bay đến thì trốn ở đâu. Như đoán được ý tôi, anh Trí động viên: “Đừng sợ! Bộ đội còn dám đặt cả pháo cao xạ giữa cầu. Dọc đường, hầm tránh bom thiếu gì!”. Tuy có vững bụng hơn, nhưng nói chung thì tôi vẫn sợ. Tôi nhớ những chiếc thần sấm, con ma, bay chúi xuống cắt bom, tiếng rít như gió bão, nghe rùng cả xương sống. Tôi hình dung ra những qủa bom đen chùi chủi, xoáy tít những vòng xoáy kinh người, rú rít màu chết chóc. Cả những trái rốc két, phóng xuống từ hai cánh máy bay. Và lửa, và khói…
Đang lúc tôi vừa đạp xe vừa nghĩ tới cảnh chết chóc rình rập, thốt nhiên có một bóng người đột ngột hiện ra ở bên đường. Đó là một người đàn bà xõa tóc. Bà ta vung cả hai tay lên trời, xổ ra một tràng âm thanh mà tôi không hề hiểu được. Chưa kịp bóp phanh, tôi đã bị người đàn bà ấy nắm lấy ghi đông, xô ngã nhào xuống đất.
Bà Cu Đồ.
Cu Đồ lôi tôi dậy. Một tay nắm tay tôi, một tay chỉ về phía Quán Hành.
- Muốn chết hử! Máy bay sắp tới nì! Đánh cả Quán Hành nữa tề!
Anh Trí quày lại, nói như hỏi:
- Mần răng bà biết mà dọa hắn?
Cu Đồ một tay xốc mấn, một tay vẫn nắm chặt tay tôi.
- Nỏ nghe tiếng ì ì dưới Cửa Lò răng? Máy bay phản lực, choa biết hết tề! Hôm nớ chết ba người. Choa đi chôn chứ mô.
Đúng lúc đó, phía cầu Cấm, đèn pha chiếu lên trời rừng rực. Đạn lửa bay ngoằn ngoèo. Pháo trung cao nổ đoàng đoàng. Pháo đại cao nổ khùm khụp. Đạn nhọn nổ chớp chớp như ngô rang. Bầu trời thoắt một cái, lập tức biến thành chảo lửa. Cu Đồ xô tôi xuống vệ đường, vừa nằm đè lên vừa nói: “Mi đừng sợ! Choa ở đây gác đường choa biết. Cháy hai chiếc là hắn cút ra biển”.
Qủa nhiên hôm đó, có hai chiếc máy bay bị ta bắn cháy. Tôi nhìn rất rõ hai chiếc đó bị cháy như thế nào. Chiếc thứ nhất vừa lọt vào hai vệt đèn pha sáng quắc, lập tức bị trúng đạn pháo cao xạ, phụt ra một quầng lửa chói lóa, đâm sầm về phía đèo Mụ Giạ. Chiếc thứ hai bị trúng đạn khi bay bổ nhào, toàn thân bốc cháy rừng rực như một bó đuốc, rơi cắm xuống phía bên này chân cầu.
Cu Đồ buông tôi ra, chạy lao lên mặt đường, vung cả hai tay mà hét lên:
- Đi bắt phi công nì! Đi bắt phi công nì!
Tôi không ngờ là bà ta lại chạy nhanh làm vậy. Chỉ loáng một cái đã biến mất vào ruộng lạc. Anh Trí và tôi bị kẹt hai chiếc xe đạp nên phải quay trở về.
Dọc đường, tôi hỏi:
- Mần răng là đàn bà mà lại gọi là Cu Đồ hả anh?
- Tau cũng nỏ biết. Bà ta học tiếng Tây chứ có học tiếng Tàu mô!
Bấy giờ ở Nghi Xuân, hợp tác xã đã thu hoạch xong mùa lạc, dọc theo các con đường, chỗ nào cũng thấy phơi lạc tràn cả ra. Còn ở ngoài ruộng, lạc sót vùi trong cát, khô giòn tới mức có thể dùng ngón tay xe cho vỏ lụa vụn ra. Đi mót lạc một tuần, chúng tôi có thể kiếm được cả thúng.
Vào một hôm trời mưa rào như xối, tôi theo người lớn đi xem kéo vó ngoài đầu cống nông giang, nơi nước đổ xiết vào ruộng lúa. Không biết cá chép ở đâu mà nhiều thế. Có mẻ vó kéo lên, trong lưới dính những hai ba con , nhảy lững tửng. Ánh lên sắc vảy màu vàng, màu xanh, rất đẹp mắt. Đang lúc lũ nhóc chúng tôi chạy nhảy, hò hét inh trời trong mưa thì Cu Đồ xuất hiện. Bà ta túm trong vạt mấn một mớ giá lạc. Cọng giá nào cũng to như đầu đũa, trắng muôn muốt. Nhìn thấy tôi, Cu Đồ ngoắt lại.
- Cho mi nầy. Đem về xào mỡ. Ngon lắm đó!
Bà ta vừa nói vừa đổ cả mớ giá lạc xuống bờ nông giang. Xong xuôi, bà ta cầm lấy oi cá của một người đàn ông, túm lấy một con cá, nặng chừng nửa cân, giơ lên huơ huơ trước mặt.
- Nỏ biết cho con nít à! Hắn nỏ có vó, mần răng mà bắt được.
Người đàn ông quay lại, gật đầu nói với tôi:
- Cho cháu đó! Về nấu canh dưa mùng mà ăn.
Tôi xách con cá và buộc túm mớ giá lạc trong áo trở về, vừa đi vừa nghĩ: Bà Cu Đồ hay thật. Ai nói bà ta điên nhỉ? Điên mà biết trước máy bay sẽ ném bom, sẽ rơi hai chiếc. Điên mà biết đi mót giá lạc đem cho trẻ con.
Nhưng Cu Đồ đúng là người đàn bà điên. Tôi nhiều lần thấy tận mắt, giữa trưa nắng mùa hè, bà ta ra giếng làng, lột trần lột truồng, dùng gàu múc nước, đứng dội xông xổng. Tôi thấy vào mùa đông năm ấy, bà ta khoác áo tơi đi lang thang trong xóm, ghé vào từng nhà xin khoai xéo và cá nục, cá trích; rồi ra ngồi cạnh gốc cây rơm, vừa ăn vừa đút khoai cho trâu. Khi trời sập tối, có lúc bà ta vào nhà dân ngủ nhờ, có lúc bà ta khoét cây rơm thành bộng, chui vào cuộn mình ngủ luôn trong đó. Vậy mà không ở đâu tôi thấy người ta khinh ghét Cu Đồ. Người ta chỉ nói: “Kìa, Cu Đồ cháy mấn!”.
Chuyện Cu Đồ cháy mấn, anh Trí có kể cho tôi nghe. Đó là vào một ngày gió bấc thổi hun hút, Cu Đồ ghé vào nhà dân sưởi lửa bếp, và xin khoai lang ngồi nướng. Bà ta lui cui sao đó, làm cái mấn rộng lùng nhùng bị bén lửa. Lúc lửa cháy thành ngọn, Cu Đồ mới biết, mới nhảy dựng lên, mới kêu trời toàn bằng tiếng Tây. Đáng lẽ tìm cách dập lửa, Cu Đồ lại lột phăng cái mấn ra, tồng ngồng chạy ra sân, ném cái mấn xuống gốc cau. Nếu ông chủ nhà không chạy ra kịp thời dập lửa, chắc chắn cái mấn duy nhất của Cu Đồ đã cháy không còn một miếng.
Có lần, một đoàn nhà văn đi thực tế khu bốn, ghé lại đội bốn của hợp tác xã Nghi Xuân, nơi tôi đang ở trọ. Nhà thơ Phạm Hổ và một ông nhạc sĩ mà tôi không còn nhớ tên, nghỉ lại mấy hôm tại ngôi nhà gần với nhà tôi đang ở trọ. Tôi vốn thích thơ thiếu nhi của Phạm Hổ, nên ngày nào cũng mò sang chơi. Thích nhất là được nghe ông nhạc sĩ vừa đáng đàn mandolin vừa hát. Tôi lại càng thích hơn khi được ông ta dạy cho cách đánh đàn. Một hôm, tôi đang say sưa tập đánh bài “Lì và Sáo”, thì bà Cu Đồ xuất hiện. Bà ta cầm lấy cây đàn, ngồi xệp xuống hiên nhà, chơi một bản nhạc rất hay. Tôi từ ngạc nhiên tới sững sốt. Chẳng lẽ Cu Đồ biết cả nhạc? Có điều không biết bà ta chơi có đúng không. Bởi vì giai điệu mà bà ta đang vê thành tiếng giòn dã, tôi không biết là của bài gì.
Khi nhà thơ Phạm Hổ trở về, ông ta mới nói với tôi:
- Bà Cu Đồ này giỏi thật! Biết đánh cả bài”La Sansong de Lara”
Từ đó, tôi đâm ra kính nể bà Cu Đồ thật sự.
Trong tâm tưởng của tôi, bà Cu Đồ là người đẹp, người tốt, người có học. Tôi không sợ khi ở gần bà ta. Nhưng tôi rất sợ nhìn vào mắt bà ta. Đôi mắt ấy có lúc vô hồn, có lúc rực lên ánh nhìn sắc lem lẻm. Lạ một điều là Khoa Toán của Trường đại học Sư phạm Vinh, sơ tán tới đâu, Cu Đồ cũng theo tới đó. Không ai quan tâm tới Cu Đồ. Sự hiện hữu của bà trên cõi thế, như là sự tất nhiên của Chúa. Bà ta cứ việc sống, cứ việc lang thang, cứ việc lột truồng nhông nhổng mà tắm ở giếng làng. Ở đâu, người ta cũng sẵn sàng cho Cu Đồ một bát cơm, một nắm khoai xéo, một bát nước chè xanh hay chè vối. Cu Đồ cứ mặc nhiên tồn tại như không hề tồn tại. Bởi vì không ai phải bận tâm với Cu Đồ.
Duy có một lần, vào lúc đêm hôm khuya khoắt, lúc sáng sao nhờn nhợt, tôi theo lũ trẻ đi chơi trốn tìm ở sân kho hợp tác xã trở về. Lúc đến gần gốc cây gạo dẫn ra giếng làng, tôi thấy một người đàn ông đang vật nhau với Cu Đồ. Gã đàn ông đó không mặc quần. Lập tức lũ trẻ mấy đứa chúng tôi hiểu ngay là phải làm gì. Chúng tôi đồng thanh hét lên: “Hiếp! Hiếp! Có người hiếp Cu Đồ!”. Gả đàn ông cuống cuồng bỏ chạy. Cả Cu Đồ cũng bỏ chạy. Cái mấn quất phần phật ngang qua chỗ tôi đứng. Thằng bạn tôi vớ được cái quần của gả đàn ông sợ qúa mà bỏ quên. Đó chính là vật chứng duy nhất của tội đồ, khiến cả xóm trong một thời gian dài, không còn ai coi y ra gì.
Sau lần đó, Cu Đồ đi đâu mất biệt.
Việc Cu Đồ bỏ đi nơi khác, tự nhiên lại trở thành một khoảng trống vắng trong mọi người.
Tôi nhiều lần nghe người lớn nói với nhau:
- Cu Đồ là con địa chủ. Mắc bệnh điên từ khi cha mẹ bị đấu tố.
- Cu Đồ là con ông ký sở bưu điện. Học qúa mà điên.
- Cu Đồ là con nhà thương nhân, do thất tình mà đâm ra man man dại dại.
Người ta nói nhiều về Cu Đồ, nhưng chẳng một ai biết gì về Cu Đồ.
Theo dòng chảy thời gian, tôi lớn dần lên, và không còn nghe ai nhắc gì về Cu Đồ nữa. Cho tới ngày tôi lên đường nhập ngũ, khi theo đoàn xe quân sự xuống phà Bến Thủy, thốt nhiên tôi nghĩ đến Cu Đồ. Bà Cu Đồ đã từng xô tôi nằm xuống, xòe cái mấn màu nâu vá chằng vá đụp, che mảnh bom cho tôi. Tôi buột mniệng nói với anh bạn cùng tiểu đội: “Ở quê tôi có bà Cu Đồ cháy mấn. Bà ta điên mà hay lắm! Bây giờ không biết ở đâu”.
Vượt hết dãy Trường Sơn dằng dặc, vào tới chiến trường Nam Bộ, chìm trong khói lửa của cuộc chiến, tôi không còn tâm trí đâu mà nhớ tới người đàn bà điên có tên là Cu Đồ ấy nữa. Ấy vậy mà đùng một cái, bà ta, bà Cu Đồ cháy mấn ở quê tôi, vụt sống dậy sừng sững. Lúc đó là giữa chừng hai trận đánh. Tiểu đoàn tôi bị bom và pháo của tụi sư 9 Sài Gòn dập tơi bời trên bờ bao Mỹ Hòa. Sau năm ngày bám trụ chống càn, quân số tiểu đoàn chỉ còn không tới một nữa. Trong khoảng thời gian im lặng sau trận pháo giàn cấp tập, trinh sát tiểu đoàn tóm được một đứa con gái là lính thiên nga phượng hoàng, lúc nó đang giương cần ăng ten bảy đốt để lên sóng liên lạc với chi khu Mỹ An. Anh em giải nó đến hầm tổ tác chiến của tôi. Phải thừa nhận, tên lính thiên nga phượng hoàng này là một cô gái rất đẹp. Nước da trắng mịn. Mái tóc xì tôn làm tôn sáng hẳn lên cái cổ cao nuột nà, ngà ngọc. Đôi mắt to, đen thăm thẳm, và rất sáng. Nhìn vào cô ta, tôi chỉ thấy sự thánh thiện, chứ tuyệt nhiên không hề nhìn thấy tội lỗi
Đang lúc tôi chuẩn bị giấy bút để hỏi cung, thì một tốp A 37 chúi xuống dội bom. Bom phát quang văng những lưỡi gang ràn rạt như xé gió. Bom khoan nổ chuyển đất. Dứt trận bom rùng rùng như dội bão, lập tức pháo khoan và pháo chụp dập xuống như dội lửa. Căn hầm chữ A âm trong lòng đất của chúng tôi chuyển động rùng rùng như sắp đổ ụp xuống. Chớp lửa loa lóa ngoài miệng hầm. Cô gái từng bán đứng chúng tôi cho pháo bầy, cuống cuồng ôm chầm lấy tôi, thét lên lạc cả giọng: “Me ơi! Mẹ!”. Những tiếng nổ chói chát không át nổi tiếng kêu thảng thốt ấy. Đó là tiếng kêu của con người. Đó là tiếng kêu cứu thật sự của con người. Nó lay thức bản chất người, bản chất lính của tôi. Nó thức tỉnh trong tôi tình yêu của đồng loại. Tôi đã xô cô ta nằm xuống, lấy thân mình che chắn tử thần cho cô ta. Pháo nổ ngay trên nóc hầm, ngay bên miệng hầm. Lửa chớp nhoang nhoáng. Khói và bụi đất mù mịt. Lưng tôi nhói lên buốt lạnh.
Dứt trận mưa pháo kéo dài chừng hai mươi phút ấy, nhìn thấy máu chảy ướt đẫm trên lưng của tôi, cô gái úp cả hai bàn tay lên gương mặt, khóc nức nở.
Tham mưu trưởng vừa băng cho tôi vừa nói:
- Đừng khóc nữa! Khiếp nhược vậy mà cũng đòi làm lính!
Khi đã cho giải cô ta về cứ trung đoàn, tham mưu trưởng vừa châm một điếu Rubi quân tiếp vụ, vừa nhìn tôi mà nói:
- Mẹ kiếp! Nhìn nó khóc, tự nhiên tao nhớ bà Cu Đồ cháy mấm. Bà ấy điên đẹp, đẹp tới lạ lùng!
Té ra tham mưu trưởng lại rất rành về người đàn bà điên biết nói tiếng Tây ở quê tôi. Ông là người tận mắt chứng kiến cái chết đẹp của Cu Đồ. Bấy giờ ông là lính pháo bảo vệ phà Bến Thủy, thuộc một khẩu đội đóng trên đỉnh núi Quyết. Trong một trận đánh trả quyết liệt oanh tạc cơ của Mỹ, không biết từ lúc nào, bà Cu Đồ đã lên tới đỉnh núi. Bà ta đứng thẳng người trên một tảng đá ngoài hầm pháo. Hai chân dạng ra, hai tay chỉa lên trời, bắn súng mồm pằng pằng liên tục. Một người lính nhào ra, kéo Cu Đồ vào hầm ẩn nấp. Nhưng ngay sau đó, Cu Đồ đã lại nhảy ra ngoài, dạng chân, chỉa cả hai tay lên trời mà bắn pằng pằng bằng miệng. Một mảnh bom quất vào bụng bà. Ruột đổ ra ngoài, nhưng Cu Đồ vẫn đứng thẳng hiên ngang mà bắn. Thêm một mảnh bom nữa. Cu Đồ gục xuống. Cái mấn màu nâu bị hơi bom thổi tung phần phật. Một trái rốc két phóng xuống, khói lửa trùm lên Cu Đồ phừng phực. Cái mấn bốc lửa như một bó đuốc.
Cu Đồ đã ra đi như thế.
Còn tôi, tôi biết rằng, suốt cả đời, tôi sẽ không bao giờ quên được bà Cu Đồ cháy mấn!

H.H.T.


sức mạnh báo chí

SỨC MẠNH BÁO CHÍ
hồ tĩnh tâm


Tết năm ngoái, vợ tôi lặn lội vô làng mua được con gà mái nòi. Tôi và hai đứa con, ai cũng phản đối chuyện mua gà trong mùa dịch. Dù vợ tôi ra sức chứng minh, đây là gà khỏe mạnh, được mua ở vùng không hề có dấu hiệu dịch bệnh, nhưng cả nhà vẫn không dám rớ tới nó. Bỏ thì thương vương thì tội. Nhà tôi ở trong hẻm phố, bỏ đi đâu được. Đành phải cột chân nuôi nhốt nó trong buồng tắm.
Mỗi ngày tôi phải hốt phân, dội nước hai ba lần, con bé mười tuổi vẫn ngán cái buồng tắm như sợ ma. Sau cùng tôi phải thịt, nấu cà ri bằng nước dừa cả hai tiếng đồng hồ. Tất nhiên tôi và bà xã phải ráng gồng mình lên mà ăn. Còn con nhỏ, dù dỗ ngọt đến mấy, nó vẫn khăng khăng: “Ba mẹ không chịu đọc Báo, nghe Đài hay sao mà dụ con”.
Sức mạnh báo chí quả là ghê thật!

Hồ Tĩnh Tâm


khổ bởi thần kê

KHỔ BỞI THẦN KÊ

Xóm Bàu có ông Ất, mê gà tới không thiết gì vợ con. Biết lão Hạ xóm Bún, có con thần linh ngũ sắc, đá độ chưa từng biết mùi chiến bại, ông Ất thèm tới mất ăn mất ngủ. Con gà đó, từ lâu đã không ai dám đá, với nữa tuổi nó cũng đã già, mình mẩy ê hề thương tích, có rước được về, cũng chẳng nước non biển sở gì. Nhưng thèm thì cứ thèm, cũng như người ta yêu là vì người ta yêu thế thôi.
Một hôm, ông Ất cụ bị chai áp sanh, với chục hột vịt lộn, mò tới nhà lão Hạ.
- Lão Hạ à, ra gốc xoài nhâm nhi mấy ly nghen! Đem luôn con ngũ sắc ra ngắm cho sướng.
- Bộ ông muốn đúc giống rặt nòi hay sao? Cứ ba hột lấy một, chịu thì ẵm luôn nó về.
Vậy là hai bậc trưởng kê bày binh bố trận, tâm đắc từng ly từng giọt, say oặt oẹo như bún trụng nước sôi.
Đến lúc ra về, ông Ất bợ con thần linh ngũ sắc trên tay, đi bước xà quần như Võ Tòng đả hổ. Qua cây cầu dừa, cứ gần tới bờ bên kia thì ông Ất lọt mương. Đáng lẽ lội lên mà về, ông Ất lại đáo vòng chỗ cũ. Năm lần bảy lượt, lần nào ông Ất cũng lọt mương, bùn sình dơ hầy cả quần lẫn áo. Duy chỉ con gà là không hề mảy may dính nước, cứ nằm gọn trong lòng ông Ất tục tục gọi mái.
Lão Hạ đứng trên bờ, nhe răng cười xởi lởi:
- Thôi, để nhắn con Tím đưa con mái nòi tới đây. Tôi đón dâu gà còn hơn ông bắt rễ. Trong nhà còn ve rượu với mấy con bổi sặc rằn, nhậu luôn cho biết trời biết đất.
Nghe lủng lời vàng ý ngọc, ông Ất tung con gà lên cao.
Lập tức con thần kê bay bỗng lên bờ. Đập cánh gáy khào khào: Khó quá đi thôi! Khó quá đi thôi!

H.T.T.


CHO MẦY TỚI SỐ

Thằng Tý ẵm con gà tre điều đến nhà thằng Đực:
- Xổ bậy chơi mầy!
Đực cười tít mắt.
- Xổ chơi vài hiệp, được quá sao không.
Cu Tèo chạy ra xăng xái:
- Cho em cáp con nhạn ăn năm, tính bằng mười tờ vé số.
Trận kê hùng diễn ra lạch phạch góc vườn. Chuối nhạn tung đòn, quần kê đả tử. Tiếng là tre còi mà say đòn còn hơn nòi rặt. Không hề nhang nước, tính hiệp bóng nắng trong vườn. Độ dài gần hai bóng thằng Tèo dưới đất, vẫn chưa hạ hồi ăn thua thắng bại. Chợt thằng Tèo ré lên bãi hãi:
- Chết cha! Em còn nguyên tập vé số, mua giùm em anh Tý, anh Đực!
Đực và Tý ngẩn người, cùng lúc nhìn nhau mà nói:
- Mầy mê gà, cho mầy tới số!

H.T.T.

trộm trứng gà

Tiểu phẩm:

TRỘM TRỨNG GÀ

Hồ Tĩnh Tâm


Đá banh bị việt vị, người ta gọi là ăn trộm trứng gà. Nghĩa là cầu thủ đó lỏn xuống sau lưng hàng hậu vệ của người ta, hòng ăn mảnh, ăn trộm trái banh, đặng dễ dàng đưa vô lưới đối phương. Dân gian có câu: “Thứ nhất ăn trộm trứng gà, thứ nhì đánh rắm đi qua mặt người”. Ngẫm thấy buồn cười. Cái hột gà thì đáng bao tiền mà trộm, để rồi phải mang tiếng ăn cắp vặt. Đánh rắm qua mặt người cũng xấu hỗ lắm. Nhưng cầu thủ việt vị mà lập bàn, các “phan” tín đồ túc cầu, nhất nhất đều tha tội cho hết. Chỉ có ông trọng tài thiên vị, nhìn thấy mới đồng tình với họ, lờ đi; còn như gặp Bao đại nhân… chắc Triển Chiêu phải ra tay.
Xóm tôi từng có tay đạo chích, chuyên trộm gà. Nghe nói mỗi lần xuất chiêu, va xát hành cùng mình. Đồ lề chỉ có cái đãy vải, với thanh nang tre vót mỏng, tất tật cũng được xát hành nhớt nhợt. Giống gà tinh tướng vậy, đêm hôm ngửi thấy mùi hành, nhất loạt đều tưởng rắn hổ hành, nằm im thít, không dám cục cựa. Chừng y lòn thanh nang tre mềm oặt vào, gà tưởng rắn, lại càng nín thinh nín thít. Tha hồ mà ẵm từng con. Trộm gà không học trong sách, nhưng rõ ràng có học trong dân gian. Câu đi một bước đàng học một sàng khôn, nghe ra có lý lìm lịm lỗ tai.
Nghe đâu Tòa đại hình cổ xưa của Pháp, từng phải đưa vào thành điều luật, về quyền sở hữu tài sản, sau khi xử vụ án hột gà. Con gà nhà tôi đẻ trứng trong sân nhà anh, thì trứng đó thuộc về ai. Luật phải rõ ràng cụ thể. Đã xét trứng, tại sao không xét luôn con gà. Vậy mới có chuyện hàng xóm rải thóc, dụ gà láng giềng vào sân nhà mình giết thịt. Chẳng là ông Hội đã nói: con cá bơi dưới nước của ông Hội, thuộc ông Hội, nên con chim bay qua đất của ông Hội, cũng thuộc về ông Hội. Thành luật rồi thì cứ thế thi hành. Dân đen đã thấp cổ bé họng, lại thua về cái lý cổ xưa, vậy mà dám léo hánh dóng trống pháp đình. Ai người ta xử. Nhớ câu: “Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”.
Xưa có anh bị kiện chuyện mượn nồi đồng nấu cơm. Bởi nồi đồng nhà quan, mỗi ngày đẻ ra một nồi con, mỗi tuần nồi con lại đẻ ra nồi cháu, rồi nồi cháu đẻ ra nồi chắt. Mượn một nồi, trả một nồi, nghe ra vô lý quá. Phải nhờ thằng bé lý sự trước Tòa, rằng quan bắt dân đen phải cho mượn gà, mới được mượn nồi; nồi đẻ thì vô lý xưa nay, còn gà đẻ là chuyện bàn dân ai cũng biết; nồi đẻ từng cái, còn gà đẻ từng bầy; vậy cứ công bình mà xử. Đã là cán cân công lý, không thể bên bấc bên chì.
Làng tôi có bài chửi mất gà hay đáo để. Từng một thuở ai cũng thuộc làu làu như cháo chảy. “Gà nhà bà là giống công, giống phượng, đứa qủy tha ma bắt dám bắt gà bà, nó mổ mắt mày ra, mổ tim mày ra, nó mổ bà, mổ ông, mổ cả tằng tông tiên tổ. Ơi cái đứa chết đâm, chết bổ, mày nổ con ngươi, mày rơi con mắt, mắt thắt con tim, mày chìm xuống nước, không ngóc được đầu lên”… Chửi ngoa ngoắt lắm. Nhưng ăn thua là ở cách “diễn” chửi. Thuở ấy mấy bà mặc váy. Phải một tay vén tốc váy lên, còn một tay quơ quơ xỉa xói. Lại còn phải xổ tóc, lườm lườm con mắt, nguýt nguýt con ngươi… cong rướn cả người lên mà chửi. Chửi như diễn kịch. Ấy là chỉ mất một con gà thôi đấy, chứ mất hàng nghìn tỉ như bây giờ, tôi dám đâm đầu xuống đất mà thề, người ta còn chửi sáng tạo hơn chán vạn lần. Nhưng mình chửi mình nghe. Chửi cho đã nư mà thôi. Chứ giá như có người nước ngoài, dừng xe lại hỏi, dứt khoát cả làng tôi, nhớn bé, già trẻ, ai cũng khôn khéo nói rằng: họ đang đóng trò thư giãn giữa giờ làm việc. Bởi đằng nào gà cũng toi rồi. Mà vật chất thì có mất đi đâu. Chẳng qua là chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ túi người này qua túi người khác. Gà thì người ta thịt, chứ tiền thì người ta còn rửa được cơ mà.
Võ cổ truyền có thế kim kê độc lập. Chắc lấy từ cách gà trống xù lông dang cánh, trụ vững gườm đối phương. Người Pháp tự hào về giống gà trống “Gô Loa” của họ. Nhưng trẻ con làng tôi, đứa nào cũng biết, gà trống chỉ hung hăng cắn đá đồng loại, còn khi nhác thấy bóng diều hâu trên trời, mười con như một, con nào cũng cụp đuôi, lủi vô bờ rào chạy trốn. Chỉ có gà mái là xòe cánh, nghểnh đầu chờ đối thủ. Thiên chức làm mẹ cháy bùng thành sức mạnh. Trong đàn con của nó, biết đâu có cả con của kẻ khác. Dân gian đã nói: “Mẹ gà con vịt chắt chiu, đến khi nó lớn nó dìu nhau đi”. Nhưng đó là chuyện sau này, chấp nhất mà làm gì. Còn lúc nguy khốn, dưới đôi cánh của nó, hết thảy đều là con trẻ. Lòng bao dung của con mái bao la là thế. Ai nỡ đang tâm cướp con của nó đi cho được.
Trở lại chuyện trộm trứng gà, tự dưng tôi suy, chữ đạo chích là từ chuột mà ra. Dân ta thường gọi chuột chích. Vợ chồng chuột chích vẫn đưa nhau đi trộm trứng gà. Chuột vợ leo lên ổ, xòe bốn chân quắp lấy quả trứng, rồi lăn bịch xuống đất. Chuột chồng cứ thế cắn đuôi vợ, ì ạch lôi về hang. Trộm cắp cũng phải có đồng loại mới thực hiện được. Theo đó, mỗi chuyện thâm thủng trong kho Nhà nước, tất không thể quy tội cho một người; dứt khoát phải có ai tòng phạm chứ.
Nhưng mà, đạo chích thì… bao giờ cũng khôn như chuột. Dễ gì bắt được!
Gà ơi, mi phải coi chừng!

H.T.T.

hồi ức gà

HỒI ỨC GÀ
Hồ Tĩnh Tâm



Mùa đông năm 1965, gia đình tôi sơ tán máy bay Mỹ ở xã Thanh Khê, huyện Thanh Chương. Năm ấy trời rét đậm. Rét cắt da, cắt thịt. Năm anh em chúng tôi, đứa nào da thịt cũng tím tái vì lạnh. Cái đói trường cửu lại càng làm cho chúng tôi lạnh hơn. Bữa cơm, hôm nào cũng vét nồi quèn quẹt. Vậy mà ăn rồi cứ tưởng như chưa ăn hột nào.
Đúng vào dịp ấy, nhà tôi có ông khách dưới xuôi lên chơi. Khách là người cùng làng, có họ xa gì đó về bên ngoại. Tướng mạo ông ta lù khù, ít nói; đôi mắt sâu, lúc nào cũng như nhìn xoáy vào đâu đó. Không biết ông ta là khách qúy cỡ nào, chỉ biết mẹ tôi phải tất tả chạy đi mua một con gà về, vừa luộc vừa kho cho ông ta nhắm rượu và ăn cơm. Tôi những tưởng anh em chúng tôi sẽ được ké vào đó một bữa, ai dè tất cả đều được dọn hết lên mâm.
Để giữ phép lịch sự, anh em chúng tôi phải ăn cơm dưới bếp, còn khách thì ăn ở nhà trên. Hồi đó, nếu như có thịt, bao giờ mẹ tôi cũng kho rất mặn, để anh em chúng tôi ăn dành vài bữa. Nên tôi vừa ăn vừa nghĩ, chắc thế nào khách cũng chừa cho chúng tôi một ít. Không ngờ, khi tôi đang ăn thì mẹ gọi lên, sai đi mua thêm cho khách gù rượu; tôi nhìn vào mâm, thấy chỗ gà luộc đã vơi gần một nửa. Vậy là anh em chúng tôi không còn hy vọng gì nữa.
Chạy gần một cây số đi mua rượu trở về, tôi thấy thằng em kế đang đứng ở góc nhà trên, tay cầm cái đùi gà, vừa nhai vừa liếm mép một cách ngon lành. Bụng tôi sôi lên. Cái thằng khốn nạn. Còn hai đứa em nó dưới bếp, vậy mà dám mò lên ăn chực phần khách. Tức trong bụng nhưng tôi vẫn phải lẳng lặng xuống bếp. Đúng lúc đó, tiếng ông bác họ cất lên nhừa nhựa:
- Mấy đứa mi lên đây ăn với tau cho vui.
Hai đứa em tôi theo thằng anh chạy vọt ngay lên. Còn tôi thì không dám. Ông bác phải gọi đích tên hai lần tôi mới dám lên. Té ra ông chỉ gỡ thịt để một bên, rồi gặm xương nhắm rượu. Chỗ cơm trắng và thịt kho vẫn còn nguyên.
Ông bác đi ngay hôm đó.
Mẹ tôi nói:
- Bác mi đem tiền với mấy chỉ vàng lên cho. Ngày mai má mua một con gà thiệt lớn nấu cháo. Con nhớ tên bác là bác Thưng, người làng Triệu Hải quê mình.

H.T.T.

hai mẩu chuyện gà

HAI MẨU CHUYỆN GÀ
Hồ Tĩnh Tâm


1. Năm 1967, từ Thanh Chương, gia đình tôi ra Thanh Hóa, lên sơ tán trên Thạch Bình- Thạch Thành. Cơ quan cất cho cái nhà sát mé ruộng, thành ra mẹ chỉ huy mấy anh em chúng tôi nuôi cả gà, cả ngỗng, cả ngan. Nhưng nhiều nhất vẫn là gà. Bấy giờ đoàn xã có tổ chức cho đội thiếu niên thành lập Hợp tác xã Măng non. Nghĩa là hàng tháng chúng tôi phải đóng góp cho HTX mấy chục ký phân chuồng, phân xanh, sáu tháng phải đóng một con gà.
Thằng em kế của tôi xin riêng một cặp trống mái. Nó nói, gà con do con mái sinh ra sẽ là của nó. Đó là con mái đầu nhỏ, lưng to, bụng sa, rất mắn đẻ. Ngay lứa đầu tiên, nó đã có một bầy gà con tíu tít hơn hai chục con. Nó tuyên bố, nuôi lớn sẽ đem úy lạo hết cho khẩu đội cao xạ pháo bên kia đồi. Bầy gà đang lớn sơn sởn, không hiểu sao cứ mỗi đêm lại vài con lăn ra chết. Sau này tôi mới biết, gà của nó nuôi riêng bị chuột vào cắn. Tuy vậy vẫn còn một con lớn lên, nặng trên hai cân. Nó ẵm con gà đó đi tặng bộ đội như đã hứa.
Bẵng đi một thời gian, tôi nghe tin nó được giải thơ thiếu nhi, báo Thiếu niên Tiền phong. Đó là bài thơ năm chữ khá dài, kể chuyện nó nuôi gà, bị rốc két bắn chết, chỉ sót lại một con què chân. Con gà đó nó đem tặng bộ đội cao xạ pháo, người đã cứu con gà sống sót.
Rõ ràng là nó bịa, chứ gà có bị rốc két bắn hồi nào. Chỉ ở đập nước xã bên mới bị máy bay Mỹ ném bom, bắn phá. Bịa mà được giải thưởng. Kể ra nó cũng láu ra phết.


2. Năm 1981, tôi dạy Văn ở trường Bổ túc Văn hóa Cán bộ tỉnh. Bấy giờ đang thời bao cấp, đời sống cán bộ, giáo viên, công nhân viên rất khó khăn. Đúng lúc đó, ông cậu tôi từ Ninh Bình vào thăm.
Lương chưa lĩnh, tiền thì không còn, tôi đành phải giết con gà mái duy nhất sống sót sau trận dịch, đang ấp trên ổ. Con gà này đã ấp hơn chục lứa, sợ nó dai, tôi phải chặt khúc hầm với đu đủ. Chế biến không giống ai, nên vợ tôi tỏ ra không hài lòng, bỏ đi làm món nộm đu đủ với đậu phộng và rau răm.
Nấu nướng xong xuôi, tôi gọi thêm mấy tay láng giềng qua chơi. Dù món gà đã hầm cả tiếng, thịt vẫn dai nhanh nhách. Tất nhiên cậu tôi lớn tuổi, răng cỏ lung lay, không thể nào ăn nổi.
Giữa thời khó khăn mà có thịt gà đãi cậu là qúy lắm, nên tôi vô tình không để ý thấy ông cậu chỉ ăn món gỏi chay. May mà vợ tôi từ dưới bếp bưng lên cả một chậu thau mũ trứng gà luộc. Tôi hỏi, sao không để ủ nóng bằng bóng đèn cho trứng nở mà nuôi. Vợ tôi cười: điện cúp chớp mỗi ngày, ấp bóng đèn thế nào được.
Bây giờ thời đại gà công nghiệp, nghĩ lại chuyện ấy thấy mắc cười. Bạn bè lâu lâu rủ nhau đi lẩu gà nòi, là họ ngán cái món gà công nghiệp vừa nhảo vừa mềm. Chẳng lẽ tôi làm phép kéo lịch sử ngược trở lại.

H.H.T.

gà đẻ gà cục tác

Tiểu phẩm:

GÀ ĐẺ GÀ CỤC TÁC
Hồ Tĩnh Tâm


Gà không cục tác, làm sao ta biết gà đẻ. Với nữa, đẻ ra trứng hồng cho thiên hạ có con dòng, cháu dõi, cũng đáng cục tác lắm chứ. Đằng này, chín chữ cù lao, mang nặng đẻ đau, làm sao mà không cục tác cho được. Xuân Diệu từng thốt lên: “Mỗi ngày vui một quả trứng hồng”. Ôi chao là cái sự vinh thiêng của sinh nở!
Nhưng ông ba ta có vẻ còn tinh tướng hơn nhiều. “Gà đẻ gà cục tác”, còn có nghĩa khoe khoang, bố cáo. “Thấy chưa, tôi lại đẻ trứng đây nè!”. Nhưng trứng gì mới được. Chuyện xưa có gà đẻ trứng vàng. Vàng ròng một loạt số 9 cơ đấy. Đẻ ra đẻ đấy chứ. Trứng của tớ là trứng vàng. Còn trứng của các cậu, giỏi lắm cũng chỉ nở ra gà, còn không thì ung, thì xác. Đương nhiên tớ phải cục tác cho các cậu biết mặt! Thiên hạ biết mặt!
Tôi nhớ có câu chuyện. Thôn nọ muốn thay tay trưởng thôn hách dịch bằng trưởng thôn khác. Trưởng thôn nói: “Được thôi! Nhưng giỏi thì thiên hạ thử bắt gà đen đẻ trứng đen xem nào!”. Tất nhiên không ai làm được chuyện trái khoáy ấy. Trưởng thôn cười hề hề: “Thấy chưa! Không kiếm được người làm khác giỏi hơn tôi, thì cử họ lên làm gì! Họ cũng có bắt gà đen đẻ trứng đen được đâu! Rốt cục, hết thảy cũng gà cùng một mẹ, đá đáp nhau làm gì; ai lên chức trưởng thôn rồi mà không vậy. Khôn ngoan đá đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Và… trưởng thôn vẫn cứ làm trưởng thôn. Ông ta quan liêu, hách dịch, thì cũng như người khác hách dịch, quan liêu, chứ có khác gì. Lắm thầy thối ma, lắm cha con khó lấy chồng. Suy cho cùng, từ xưa tới nay, gà vẫn đẻ và gà vẫn cục tác. Chỉ có gà đẻ mà không cục tác mới là chuyện lạ.
Sách nhà Phật có chuyện, kể rằng: Anh nọ mắc chứng sợ gà, bởi hoang tưởng mình là hột bắp. Người nhà đem vô viện tâm thần. Bác sĩ cho anh ta câu thần chú, niệm hàng ngày. “Tôi không phải là hột bắp”. Anh nọ thuộc nằm lòng, sung sướng trở về nhà, vừa đi vừa hùng hổ: tôi không phải là hột bắp. Dáng vẻ oai phong như chưa hề biết sợ gà là gì. Tới ngõ, thấy con gà nhởn nhơ mổ hột bắp trên sân, anh ta tá hỏa tam tinh, vùng chạy đáo trở lại. Thấy anh nọ hớt hơ hớt hãi, lại mồ hôi túa ra như tắm, bác sĩ hỏi: “Sao vậy?”. Anh chàng hột bắp, vừa run lập cập, vừa hổn hển trả lời: “Thưa bác sĩ! Đã đành tôi biết tôi không phải là hột bắp, nhưng liệu con gà nó có biết không? Nó lại chẳng mổ, chẳng nuốt chửng tôi ấy à!?”.
Ấy, cái chuyện sợ gà ngày xưa ghê gớm là vậy, nhưng sao bằng năm rồi dân ta sợ cúm gà. Một đằng chỉ là hoang tưởng, còn một đằng là sự thật cơ mà. Chàng hột bắp sợ gà thì phải đi viện, còn hậu duệ sợ gà thì cạch gà ra, nổi lửa tru di tam tộc họ nhà gà. Trống mái, tre nòi, ó chuối, lớn bé, to nhỏ… cứ là chết chùm cả nút, cả nút. Nguy cơ bị liệt vào sách đỏ là rành rành. Vậy tam tổ họ nhà gà, hỏi làm sao không cục tác!
Con khóc mẹ mới biết đặng cho bú sữa. Còn gà cục tác… phải chăng… tặng một nắm lá chanh cho rồi?..
H.T.T.

con cà con kê

CON CÀ CON KÊ

Hồ Tĩnh Tâm


Dân gian có câu: cà kê dê ngỗng. Nghĩa là nói dông nói dài, không đâu vào đâu. Vậy cho nên mới sanh tật: con gà cục tác lá chanh. Ơi là gà ơi, chưa thoát nạn TypA H5N1, lại kêu chết cho mình trên bàn tiệc ông thiên lôi! Tội lắm!
Gà có gà gô, gà lôi, gà rừng, gà ri, gà dầu, gà Tàu, gà nòi, gà tre… Suốt dọc dài nước Việt, đã không kể hết tên tuổi họ nhà gà, huống hồ gà trên mặt đất. Dân xứ tôi gọi gà theo lông, theo dạng. Có gà mặt chữ điền bặm trợn, gà mặt nguyệt thanh tú; rồi thì gà Ô, gà Điều, gà Xám, gà Nhạn, gà Chuối, gà Ngũ Sắc. Đủ cả các mạng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nhạn ăn Xám. Xám ăn Ó. Ó ăn Ô. Ô ăn Điều. Điều ăn Nhạn. Họ tính mạng ngũ hành theo lịch mặt trăng. Duy gà ngũ sắc là không kỵ mạng gà nào.
Nhân chuyện cà kê dê ngỗng, xin kể ra đây mấy chuyện gà, đặng hầu ba ngày rảnh rỗi.

GÀ CẦU BÀ ĐIỀU
Chắc nhiều người từng nghe câu ca dao dân dã:

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân

Nhạc sĩ Vũ Loan không đồng ý với câu này. Anh cải chính: “trai nào sang bằng trai Cao Lãnh”, chứ gà Cao Lãnh thì đã mất danh từ lâu. Nhà văn Phạm Trung Khâu lại cười mà rằng, gà nòi Cao Lãnh, tiếng vậy chớ sợ vía giống gà Tàu mồng lớn. Trong nghệ thuật đá gà, gà mồng lớn, cựa sừng trâu, cựa xuôi, vảy xệch là gà bỏ. Ai ở thị xã Vĩnh Long mà không biết, gà cầu Bà Điều mới là gà chiến.
Cầu Bà Điều trước đây ở phường một, nằm trên đường từ rạp chiếu bóng Lê Thanh ra cầu Cái Cá. Nay cầu này không còn, nhưng danh gà nòi cầu Bà Điều thì người đời vẫn truyền tụng. Nổi danh hơn cả là thầy Nghĩa. Nghe nói thầy Nghĩa luôn có gà dữ, gà thần linh, ít ai dám cáp độ, cho dù con gà có bằng chang, bằng chạn.
Người ta đồn đãi, gà cầu Bà Điều chủ yếu là gà hình giọt mưa, lưng xuôi, có cú xạ song đao hồ chớp giật. Mới đầu người ta đá gà cựa. Mỗi trận kê hùng kéo dài vài mươi hiệp nhang, nước. Sau cảnh sát ông Thiệu bắt bớ dữ dằn, đám đệ tử thần kê chuyển sang đá chồng cựa sắt. Năm ăn năm thua nhờ vào may rủi, đâu còn biết gà dở, gà hay. Danh tiếng gà cầu Bà Điều mai một dần đi.

ĐÚC GÀ CHIẾN NÒI
“Chó giống cha, gà giống mẹ”. Trong nghề đúc gà, con mái nòi là cực kỳ quan trọng. Những năm 80, tôi sống ở Trường Công – Nông, có con mái nòi giống Trà Cú, sắc lông xanh đen, dữ đòn dễ sợ. Tôi đã tận mắt thấy nó nghênh nhau với rắn hổ đất. Con rắn to cỡ ký rưởi, ngóc đầu cao gần hai gang tay, quơ qua quơ lại. Con gà trụ chân đứng tấn, xòe cánh, gườm con rắn rất oai dũng. Tôi dùng cây phang chết rắn. Con mái nòi liền nhảy xổ vào, mổ đầu rắn lia lịa. Lần khác tôi thấy nó đá với diều hâu. Con kê con điểu quần nhau, bụi bay mờ mịt. Rõ nó là giống gà dữ. Ông Hai Bia ở Phước Hậu, hầu như ngày nào cũng đến gạ tôi bán cho ổng, đổi cho ổng. Là bởi Hai Bia đúc gà có tiếng.
Muốn đúc gà rặt nòi, còn phải biết lựa con trống từ hai ba tuổi trở lên, từng thắng vài dăm độ. Mà cũng không nên cho mái ấp nhiều trứng quá. Mái nòi nuôi con dở ẹc. Nhiều khi nó lẩn thẩn đi một đằng, bỏ con đi một nẻo. Chú Mười Sông Đốc nói, dân Cà Mau, có người để ổ gà ấp trên miệng lu, trong lu nuôi rắn hổ, đặng lấy hơi nọc độc rắn khè, hy vọng đúc ra gà dữ, gà linh.
Gà đúc xong còn phải tuyển. Con nào mắt sâu, tròng con ngươi lanh lợi, bước đi như bốc cát tung ra, cẳng chân vuông vức, vảy no đều, cựa Đao Độc, hai màu khác nhau như nhật nguyệt, đuôi dài chắc, hẳn là giống linh kê, ngàn con mới có một. Lừng danh trường gà, có lẽ không gì khác ngoài gà Tử Mị. Giống gà thần thiêng này, khi ngũ dưới đất thì xòe cánh, xoãi chân, cổ rướn dài phía trước, dáng hệt như gà chết. Lưỡi nó thụt sâu, hơi thở hôi thối, giọng tục mái, giọng gáy nghe khào khào. Khi xung trận, ngón đòn đá hất vĩa tối, vĩa sáng, thường làm rách cổ, lủng bầu diều địch thủ. Ngón tạt mé của nó, lợi hại tới bể mặt, đui tròng đối phương. Cú xạ song đao của gà Tử Mị, không ai là không phục. Nếu gà này có vảy Án Thiên, cựa Đao Dựng, hẳn là vô giá, khó ai chịu nhượng cho ai.
Trong nghề đúc gà, kỵ nhất là “trống tơ cản mái”, với gà cận huyết với nhau. Người sành điệu, có khi cho gà xứ mình nhảy với gà rừng, hay với gà Phi Luật Tân, gà Ấn, gà Mã Lai… Nghĩa là càng khác máu tanh lòng càng tốt. Dân đúc gà thiện nghệ, không ai ngu hé lộ lai lịch con mái, con trống của mình.

DƯỠNG GÀ NHƯ DƯỠNG TÂM DƯỠNG TÍNH
Thú đá gà cũng như thú chọi trâu, thú đá chim, đá cá, thú tạo dáng bông sai, thú tạo hòn non bộ, công phu không biết tới ngần nào.
Dầm chân, om bóp, vô nghệ, vô nước, quần sương, chạy lồng, xổ gà, chồng cựa, hay cho uống nước khuya, ngón nào cũng phải rành rẽ thành bí quyết gia truyền. Người dưỡng gà, luyện gà có tâm có tính, bao giờ cũng ẳm con gà trên tay, đặng cho đầu gà luôn hướng về phía trước. Cái thú của người theo nghệ thuật đá gà, là được bồng ẳm đứa con cưng của mình, sờ mó nó mỗi ngày mỗi bữa.
Tôi thấy những người nuôi dưỡng gà nòi, yêu thương, săn sóc con gà còn hơn cả săn sóc con cái, cha mẹ của họ. Đêm đêm phải thức cho gà uống nước khuya, luyện cho cần cổ to ra. Hừng đông mỗi sáng, phải thả cho gà quần sương, luyện cho cú đập cánh bay lên mạnh mẽ. Khi con gà lâm trận, lỡ có bị đối phương làm bầm dập, phải vỗ hen bằng cách kề miệng hút máu bầm, hút nhớt rãi trong họng con gà. Rồi thì cuốc đất đào trùn, lùng bụi bắt bồ cào, châu chấu. Nội công phu dầm chân, vô nghệ hàng ngày, cũng đã khiến ta bái phục.

ĐÁ GÀ GÀ ĐÁ
Thực tình, đá gà là thú vui dân gian dân dã, đã truyền đời từ thời thượng cổ. Đá gà đòn mới biết gà hay gà dở, mới hiểu đặng công phu nuôi dưỡng con gà. Còn cáp độ ăn tiền, chồng thêm cựa sắt, ràng ràng là thói cờ bạc. Đã cờ bạc thì sanh tật ăn gian, ăn lận. Trăm mánh trong nghề, không còn là nghệ thuật ông bà để lại. Ngay cả những kẻ bắt ba, bắt bốn, bắt năm… ăn ké trường gà theo kiểu Triều Châu Cảo Hấu, cũng a dua thói cờ gian bạc lận, luật pháp phải thăm hỏi tận nơi cũng là lẽ thường tình.
Đá gà gà đá. Bài bạc thì có ngày mạt vận.
Ngày lành tàng tàng chén rượu, xin hầu mấy chuyện nhỏ về gà, nhưng ngõ hầu mong bàn dân nên nhớ:

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau!

H.T.T.

con gà con gả con ga

CON GÀ CON GẢ CON GA

Tạp văn của Hồ Tĩnh Tâm


Thú nuôi gà nòi, thú đá gà nòi là thú vui dân gian dân dã. Từ đá gà đòn đến đá gà cựa, hết thảy đều là nghệ thuật. Cũng như đua bò, chọi trâu, đá chim, đá cá, đá gà hấp dẫn từ người già tới trẻ con. Công phu đến độ, nhưng mang tiếng cũng cùng mình.

HAI BIA ĐÚC GÀ
Tôi không thuộc đám đệ tử thần kê, nhưng lại mê coi chọi gà từ nhỏ. Lúc sống ở Long Hồ, tôi may mắn được làm quen với ông Hai Bia, một người đúc gà nòi nổi tiếng ở Phước Hậu. Bấy giờ tôi có con mái nòi, giống Trà Cú, sắc lông xanh đen, lưng dốc, hai chân nghịch màu, cặp mắt linh lợi, sắc lạnh; rất dữ đòn. Hai Bia suốt tuần lễ, ngày nào cũng gạ gẩm tôi xin mua, xin đổi. Tuy không biết đúc gà, nhưng chừng nào tôi mới chịu mất con gà đó. Tôi đã tận mắt thấy nó xù lông, xòe cánh, nghênh đầu với rắn hổ. Con rắn lớn cỡ ký rưỡi, ngóc đầu cao cả hai gang tay, quơ qua quơ lại. Con gà đứng tấn, lắc đầu gườm rắn, bộ dạng hùng dũng như tướng soái. Tôi dùng cây phang chết con rắn, vậy mà con gà vẫn cứ đập cánh nhảy vào, nhè đầu rắn mổ lia mổ lịa. Lần khác, tôi thấy nó đá nhau với diều hâu, quyết không để bầy con bị quắp mất. Con gà con điểu đập cánh quần nhau, bụi bay mù đất. Trẻ con hai ba tuổi xóm tôi rất sợ con gà này, bởi chúng nhiều lần bị con gà rượt đá; nhiều đứa vừa chạy vừa khóc toáng lên inh ỏi.
Tôi biết, chó giống cha gà giống mẹ, bởi vậy Hai Bia mới đeo dính tôi cả tuần lễ. Nhưng muốn đúc ra gà dữ, gà chiến, còn cần phải có trống nòi tốt, trống từng thắng độ nhiều lần. Con trống phải có hình giọt mưa, hay hình đòn cân, mỏ ngắn, chắc khỏe, mắt sâu, mặt linh lợi, mồng trích, cổ to, lông đuôi dài, cẳng vuông, vảy no đều, cựa hình đao dựng, nếu hai bên khác màu như nhật nguyệt thì càng tốt. Tất nhiên còn phải xem lưỡi, xem mồng, xem bước đi, xem tướng ngủ, nghe tiếng tục mái mới quyết được.
Dụ mãi không xong, Hai Bia mời tôi tới nhà chơi. Trời ạ, ổng nuôi gà cả dãy chuồng xây bằng gạch. Mỗi chuồng chỉ một con trống. Đủ cả ó, ô, điều, chuối, nhạn, xám… đủ mạng kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Chỉ vào con ngũ sắc, Hai Bia nói: “Gà Tử Mị, linh kê đó nghen. Ban đêm nó nằm xoãi chân, xoãi cánh dưới đất, trông như gà chết. Nó gáy nghe khào khào như nghẹt họng, mùi hôi không chịu nổi. Thứ này không kỵ mạng với bất cứ giống gà nào.”. Rồi Hai Bia nói thật, rằng ông đúc gà để bán; tận dưới U Minh, tận ngoài Trung còn tìm đến để mua. Nếu có được con mái nòi dị tướng dị tính của tôi, cầm chắc ông hốt bạc triệu.
Vậy là tôi xiêu lòng. Đổi lại, tôi được bệ về nhà con điều đỏ như lửa.

GÀ CẦU BÀ ĐIỀU
Năm 1988, tôi tới nhà văn hóa thị xã tập bài hát mới sáng tác cho ca sĩ Mai Linh, thấy họa sĩ Tín Đức đang lúi húi vẽ bức tranh gà lớn cỡ hai mét vuông. Hỏi thì anh nói: “Năm nay phòng văn hóa cho thị xã mở trường gà, đá Hội”. Tôi nói “gà nào hay bằng gà Cao Lãnh”. Tín Đức lắc đầu: “Tiêu giống Cao Lãnh rồi, do họ cho đạp mái không kỹ. Nào là cận huyết, nào là trống tơ cản mái. Giờ phải nói tới gà cầu Bà Điều của phường một thị xã. Nơi này gà đòn cân cũng dữ, gà giọt nước cũng dữ”. Từ đó tôi bắt đầu để ý tới giống gà nòi danh tiếng của Vĩnh Long.
Dễ thôi, bên chái nhà anh Hiển kế vách với tôi, thỉnh thoảng dân thị xã vẫn ẵm gà vào xổ, vào đá lén. Gà mặt chữ điền bặm trợn có, gà mặt nguyệt thanh tú có. Nhìn kỹ, thấy con thì cựa Giao Chỉ, con thì cựa Đao Độc, Con thì cựa Đao Dựng. Vảy đủ loại. Từ vảy dâu săn, vảy qui, vảy vấn sáo, vảy độ tiền, vảy nước, đến vảy án thiên, tam tài án thiên, vảy phủ địa, vảy hàm long, vảy hổ đầu… Con có cú sỏ, ra đòn tống mạnh như búa bổ. Con có cú tạt mé, đá xóc địch kê bể mặt, đui tròng. Con lại cất mình bay bổng, xạ song đao mạnh hồ sét giật. Rồi thì vĩa tối, vĩa sáng. Rồi thì hồi mã thương. Gà cầu Bà Điều oai danh không thể tưởng. Có người thề bán mạng với tôi, rằng tướng Cao Kỳ từng vi hành tới đây, trực tuyển trống nòi đem thi thố tận xứ Ma Li.

TRĂM MÁNH GIAN HÙNG
Hà Nội sau giải phóng, Tết nào cũng mở sới gà. Nhiều nhất là ở vườn Bách Thảo, ở gò Đống Đa. Chủ yếu đá gà đòn. Thuở ấy tôi mê coi tới mức bỏ cơm nhà. Buổi trưa gặm ổ bánh mì năm xu, mãi mê với đòn công, đòn thế của từng con gà chọi. Rồi đánh đu theo xe điện, qua Đồng Xuân, ngang Bờ Hồ, về phố Huế. Nghe chuông xe điện leng keng, cứ tưởng tiếng người hô buông, hô thả.
Khi gặp Hai Bia, tôi mới biết trăm mánh gian hùng, khi trường gà tỉ thí.
Có người chuốt móng đầu ngón tay trỏ, nhọn hoăn hoắt như đầu lưỡi đao. Khi thả gà thì gian manh tấn tới, dùng ngón tay ấy đâm bầu diều thần kê địch thủ. Lỡ bị phát hiện thì ra lời xin lỗi. Có người tẩm diêm tiêu vào hột cơm, tìm cách nhử gà địch thủ mổ ăn, kỳ cho nó đau đường ruột, chưa đá đã lăn đùng thua cuộc. Rồi thì coi mạng gà, để lựa ngày, lựa giờ mà đá. Nhạn ăn Xám. Xám ăn Ó. Ó ăn Ô. Ô ăn Điều. Điều ăn Nhạn. Họ tính mạng ngũ hành theo lịch mặt trăng. Tất nhiên phải coi chậu chân gà, đếm vảy ngón nội, ngón ngoại, ngón chúa, ngón thới của từng con. Mấy thứ cựa sừng trâu, cựa xóc đế, cựa xuội, kể như gà đồ bỏ. Khi đúc gà, phải lựa trống nòi trên hai tuổi; trống mái phải khác máu tanh lòng, cấm kỵ cùng dòng đồng huyết. Dân gian có câu, trống tơ cản mái; không ai cho gà đang tuổi tranh hùng đạp mái. Khi con mái lâm bồn ấp trứng, có người đặt ổ trứng trên miệng lu, trong lu nuôi hổ lửa; hòng lấy hơi khè nọc rắn, đúc đặng thần linh cho con gà dữ. Có người khi cáp độ, còn tẩm độc cựa gà.
Từ cờ gian bạc lận, thiên hạ bày ra đá gà chồng cựa sắt. Dài cả tấc chứ không ít. Có con nhảy lên búng cựa, đâm lủng ngực trẻ con ngất xỉu. Đá kiểu này năm ăn năm thua, đâu còn biết gà hay gà dở. Dân ăn ké hô ba, hô bốn, hô năm. Ấy là kiểu Triều Châu Cảo Hấu, ăn ké theo nhang, nước trường gà. Người lành, muốn tham gia đấu trường gà Hội, phải nhọc sức với con chiến nòi để quần kê đáng mặt.
Trăm mánh gian hùng, rồi cuối cùng mạt vận khi nào không biết. Đá gà gà đá, chuyện muôn thuở của trăm mánh trường kê.

CON GẢ CON GA
Hai Bia không đá gà, nhưng om bóp, dầm chân, vô nghệ, ngón nào ông cũng cao tay, thiện nghệ. Tôi tận mắt thấy ông cho gà uống nước khuya, rồi quần sương khi hửng sáng. Gà uống nước khuya nhằm luyện cho cần cổ to ra. Gà quần sương nhằm tăng thêm dũng khí, dũng lực. Hai Bia còn nhọc công tung gà lên cao luyện cánh. Cả cách hớt lông đuôi cũng kỳ công từng nhát kéo. Lại còn xổ gà, chạy lồng, và vỗ hen khi gà lâm trận. Nhìn cách ông dùng miệng hút máu bầm, hút nhớt rãi từ trong miệng con gà, tôi biết ông yêu nghề tới tận cùng máu thịt.
Lăn lóc mấy năm trời ở Long Hồ, tôi ngộ ra Hai Bia yêu gà bằng tâm bằng đức. Nhưng trời ạ, con gà con gả con ga, dẫu là gà cầu Bà Điều xứ Vĩnh, thì rốt cùng cũng chỉ là gà trên trường đấu, trong bồ gà cho người ta bắt xác. Thú đá gà cũng như thú đá chim, đá cá, cũng như thú tạo dáng bon sai, tạo hòn non bộ; đừng ai hỏi cắc cớ Hai Bia đúc gà để làm gì. Lỡ như ổng có đúc gà cáp độ, ắt có luật pháp công minh thăm hỏi tận nhà. Còn đá gà, từ xưa tới nay vẫn là nghệ thuật, vẫn là hồn dân dã muôn năm.
Ước gì tôi có được con linh kê ngũ sắc!

H.T.T.

luận về gà


Con Gà Cục Tác Cục Ta
Hồ Tĩnh Tâm


1. TỪ THỰC ĐƠN GÀ TRONG CA DAO:

Nói về ăn uống, thịt gà có lẽ thuộc loại đứng đầu bảng. Chẳng thế mà trong dân gian, trẻ em thường nghêu ngao hát:

Món ăn thiệt tốt
Là món thịt kho
Món ăn quên no
Là đùi gà nướng.

Thủy tổ loài người, từ khi được ông Promété cho lửa, bắt đầu biết ăn chín, bằng cách nướng những con mồi săn bắn được. Món nướng kể như là món ăn cổ nhứt. Qua bao nhiêu triệu triệu năm rồi mà nó vẫn đứng vững, hẳn là nó phải có chỗ đứng đàng hoàng trong thực đơn của bất cứ một bữa yến tiệc nào.

Thế giới có biết bao nhiêu là bao nhiêu những ông vua bếp lừng lẫy, họ đã chế ra từ con gà biết bao nhiêu là bao nhiêu những món ăn nổi tiếng. Nhưng món thịt gà của bà Cà Sợi trong “Hòn Đất” của Anh Đức vẫn có chỗ đứng của nó. Trước khi quyết định phán xử số phận của thằng con theo giặc phản dân, hại nước, bà đãi con một món gà luộc nước dừa xiêm, một món gà rang muối trong ơ đất. Cách chế biến cực kỳ đơn giản, vậy mà ngon để đời.

Ăn gà, lựa con gà cũng là cả một vấn đề. Tôi đọc trong sách của người Tàu, thấy có nói, thịt con gà đen (gà ó), bổ và thơm ngon hạng nhứt. Xương gà đen còn được chế làm một vị thuốc trong thang thuốc cực bổ của người Tàu. Dân gian ta có câu: “Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua, gà trắng chân chì mua chi giống ấy”. Có lẽ thịt con gà đen thơm ngon hơn thịt các con gà có màu khác, và việc nuôi cũng ít bị bệnh toi hơn các con gà khác, nên nó mới lừng lững mà đi vào thành ngữ của dân gian.

Tuổi gà cũng là vấn đề nghe! Ông bà mình nói, “Ếch tháng ba, gà tháng bảy”. Ấy là nói con gà ăn vào tháng bảy ngon hơn ăn vào các tháng khác. Đó là nói theo tri thức dân gian thời tháng năm, tháng mười cả làng đi gặt . Con gà sau hai tháng ăn thóc từ tháng năm, tới tháng bảy béo tròn trùng rục. Bây giờ mùa màng quanh năm, ăn gà theo tuổi mới quan trọng. “Chó già gà non, vịt già gà tơ”, “Gà lấm lưng, chó sưng dồ”… Bấy nhiêu câu ấy chỉ nhằm nói việc ăn gà vào tuổi nào là ngon nhứt. Hẳn trong chúng ta, nhiều người vẫn thường nghe câu nói dân gian sau đây: “Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà mái ghẹ”. Gà mái ăn ngon hơn gà trống. Gà mái vừa ghẹ ổ ăn lại càng thấm vị. Đừng tiếc ổ trứng mà bỏ mất món ngon ở đời. “Một tiền gà ba tiền thóc”. Tốn kém là vậy thì phải ăn cho bỏ công nuôi nấng.

Hồi tôi còn bé, giống gà ri nuôi phổ biến lắm. Sau này chẳng hiểu tại làm sao, giống gà này càng ngày càng vắng mặt. Con gà ri đã mắn đẻ, mà khoảng cách nhảy ổ lại rất dày. Có con đẻ hơn tháng trời không nghỉ, lại đẻ đều trang mỗi ngày mỗi hột; hột nào hột nấy lòng đỏ cũng au au màu gạch non. Thịt gà ri thơm ngon có hạng. Chỉ cần luộc với nước mưa thôi, hương thơm đã tỏa điếc mũi vòng vòng cả trăm mét. Hồi đó, nội tôi thường nói: Gà cựa dài thì rắn, gà cựa ngắn thì mềm. Cứ trông cựa thì biết tuổi gà. Ăn gà trống thì phải xem cựa. Cựa dài tức con gà đã già, thịt dai nhách, lạt phèo, lại bị xảm, nhai chỉ tổ mỏi hàm. Phàm gà trống, muốn ăn cho ngon, tất phải nuôi nhốt một thời gian để vỗ béo. “Lợn thả, gà nhốt” mà. Còn tốt nhứt là khi con gà mới tập gáy te te, ta đem thiến nó đi(Chó thiến già, gà thiến non). Thịt gà trống thiến thì đến thầy bói, mù câm hai con mắt, cũng phải thèm. Chẳng thế mà ông ta từng dặn gia chủ:

Chập chập cheng cheng
Con gà trống thiến
Để riêng cho thầy.

Trong việc ăn uống, thức chấm là cả một nền “văn hóa ẩm thực”, đại to tát, lớn lao. Có thấy mấy hàng cầy tơ bảy món chế thức chấm, ta mới ngán tài, mới phục sự tháo vát sáng tạo của họ. Còn như con gà, thức chấm chỉ cần rất đơn giản: MUỐI TIÊU. Vậy thôi! Đơn giản bi nhiêu đó mà ngon ác địa. Thử chế cầu kì cách nào cũng khó qua mặt được thức chấm ấy- Nhất là cho món gà luộc nước dừa xiêm, gà rang muối của bà Cà Sợi. Gia vị cho gà cũng không cần nhiều. Hạp nhứt là rau răm, lá chanh. Chết thế! Của ngon thì không cần màu mè chi nhiều. Thêm đủ thứ vào, có khi còn làm hỏng cả con gà.
Ông bà ta đã tính rồi:

Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.

2. TỚI GÀ ƠI LÀ GÀ:

Có lẽ từ ngày mấy ông Tây mắt xanh mũi lõ vào nước ta, họ đã vì nhớ xứ mà “cải biên” món súp thành phở. Và như cụ Nguyễn Tuân đã khẳng định, đầu bảng phở nhất định phải là phở gà. Nâng chén phở gà nóng hôi hổi vào buổi hừng đông, hay vào lúc phố xá lên đèn trong gió hiu hiu se lạnh, chắc không có gì sánh bằng.

Con gà hiến cho người tiếng gáy gọi mặt trời, tiếng gáy cầm canh. Nó còn hiến cho ta sự bổ dưỡng, săn gân, bền sức, sung lực, sáng trí. Nó cũng làm vui cửa vui nhà, góp phần làm xôm hơn các lễ hội nơi đình làng, bởi những trường gà treo đồng tiền kẽm, đốt nhang đá đòn. Lớn mê gà chọi. Nhỏ mê gà tre. Người sành sõi còn coi cả tướng gà, xem là gà đòn cân hay gà giọt nước. Rồi lại còn xem mắt, xem mồng, xem cựa, xem vảy, xem dáng đi, xem tướng gáy… Nâng một bước, còn xem màu lông để coi ngày, coi giờ cho con gà qúy.

Ấy vậy mà đùng một cái, nơi nơi gióng trống khua chiêng, kêu rầm lên gà mắc đại dịch virus TypA - H5N1, đổ bệnh cúm cho người chết khỏi cứu. Vậy là trống mái, lớn nhỏ, lủ khủ dòng giống nhà gà bị túm cổ nhét vô bao, liệng xuống hố đốt cháy đùng đùng như lửa Bà La Sát đốt Hỏa Diệm Sơn. Gà cúm khật khừ đương nhiên phải đốt. Gà đang sơn sởn mổ ăn lia lịa cũng mắc hàm oan chết theo. Nơi nơi lớn tiếng kết tội gà, rùm beng tới mức, không cần nhìn thấy gà, chỉ nghe nói tới gà, bàn dân thiên hạ đã sợ cóng giò, run lật bật như giẻ giun mắc nước, nhắm mắt luận tội um sùm.

Gan cùng mình như mấy lực sĩ thể hình, từng mỗi ngày xơi sống 18 hột gà, nhai nuốt mấy ký ức gà, cũng phải cao chạy bán xới, lùng mua thịt bò thay thế cho món khoái khẩu, bổ lực xưa nay. Ở đâu có gà gáy, ở đó có người nguyền rủa. Vịt, ngan, chim chóc cũng tuốt tuột bị lên án tội gây nguy cơ diệt chủng. Lời lời tố tội gà còn gay gắt hơn tố Pôn Pốt, Binlađen. Nhiều người còn quên mất cả tình hình nóng bỏng ở Palesttin, ở Iran, Iraq. Ai ai nằm ngủ cũng mớ thấy gà gây bệnh « hủy diệt » toàn cầu.

Có thể nhà trường sẽ không dạy về « con gà cục tác lá chanh » nữa, nếu như con người không bỗng nhiên ngang xương thèm ăn cháo gà, phở gà, cà ri gà, nướng lu gà, xé phay gà, tiềm thuốc Bắc gà… Nhiều báo tung chưởng : cứ đun gà 700c trong vòng 30 phút, kể như thịt gà vô bệnh. Rồi tin tức nhỏ giọt: chỗ này, nơi nọ tuyên bố hết dịch gà; siêu thị A, siêu thị B đã bán thịt gà có dấu miễn dịch. Ti vi công khai mấy vị thượng quan nơi này nơi khác khao tiệc toàn xơi gà. Loài người bắt đầu ru lại nhau khúc kê hoàn muôn thuở.

Nhưng dường như, bàn dân vẫn còn hãi lắm. Đố ai dám làm đám giỗ, đám cưới, đám ma ê hề thịt gà như trước.

Mới hay : Con chim trúng tên sợ cành cây cong, con người sợ gà tưởng mình là hạt bắp.

Khúc « Kê hoàn » chắc phải trải qua mấy chương hồi nữa mới trở lại thời oanh liệt.

HTT

trên cao nguyên hoa đá

TRÊN CAO NGUYÊN HOA ĐÁ
Hồ Tĩnh Tâm


Theo sự giới thiệu của Hội Nhà Văn Việt Nam, đoàn thực tế sáng tác tại Mương Khương của chúng tôi có bốn người (Hồ Tĩnh Tâm, Song Hảo, Nguyễn Lập Em, Anh Đào), do nhà thơ Pờ Sảo Mìn làm hướng Đạo.
Đêm đầu tiên nghỉ tại thành Phố Lào Cai. Anh Ngọc Dương, Chủ tịch Hội VHNT tỉnh, cùng nhà văn Đoàn Hữu Nam, và nhà thơ Ngô Hồng Thạo tiếp chúng tôi tại nhà hàng Sơn Hải. Trước mặt là hồ nước rộng mênh mông, còn sau lưng là núi cao xanh ngút màu cây mỡ. Hỏi mới biết, cây mỡ trồng vài chục năm, lõi của nó chính là gỗ vàng tâm- thứ gỗ làm say lòng người tới tận cùng ước muốn.
Sang hôm sau, anh Ngọc Dương cấp cho chúng tôi chiếc xe con để lên đường. Nhưng gầm xe thấp, không thể nào vượt được cung đường ngập ngụa bùn sình sau cơn mưa đêm để ra bản Trung. Vậy là đành phải quay trở về văn phòng Hội, tính cách đi xe khách lên Mường Khương. Anh Ngọc Dương điện lên văn phòng huyện ủy. Huyện nhắn cứ đợi đấy, huyện sẽ cho xe xuống rước. Nhưng chúng tôi nóng ruột lắm rồi, sẵn còn hai chuyến xe khách trong ngày thì việc gì phải đợi.
Có đi mới biết. Núi cao vực thẳm. Ngun ngút rừng mỡ trải dài vô tận. Dòng Nậm Thi uốn như dải lụa màu nâu đỏ. Bên kia biên giới, một đoàn tàu hàng của Trung Quốc chạy chầm chậm dọc theo triền chân núi. Thành phố Lào Cai đang vươn rộng ra, khỏe căng dáng núi. Không đầy tiếng đồng hồ, những ruộng lúa bậc thang đã hiện ra, óng ánh màu nước bạc. Rồi thì núi tiếp núi, sừng sững những tầm cao chất ngất. Vẫn chỉ những cánh rừng xanh màu cây mỡ. Bản Lầu, xã cửa ngõ của Mường Khương đã mở ra cao vun vút. Từ đây, những cánh rừng mỡ xanh tươi đã nhường chỗ cho những cánh rừng thông sa mu vốn yêu thích độ cao và khí lạnh.

HUYỀN THOẠI MƯNG KHẢN
Mưng Khản chính là tên cũ của Mường Khương. Mưng là Mường. Khản là gang là thép. Đất Mường Khương là đất gang thép, nhưng còn có tên gọi là đất chín rồng, bởi thế núi vây quanh Mưng Khản uốn như rồng bay phượng múa. Từ trên cao nhìn xuống, thung lũng Mưng Khản, trung tâm của huyện, đẹp mịn màng như “vòm tời con gái”. Có lẽ vì vậy mà ở đây từ lâu đã có huyền tích núi Cô Tiên. Đó là một ngọn núi cao vút lên như chọc trời mà vẽ. Trên đỉnh có một ao nước trong veo trong vắt, nơi các tiên nữ vẫn giáng trần xuống tắm. Ngày nay ao nước vẫn còn đó, nhưng đỉnh núi đã mọc lên cột ăng ten thu phát sóng vi ba cho cả huyện. Xéo qua bên là núi Pháo Đài, nơi còn dấu tích một pháo đài do người Nhật xây dựng. Theo trục lộ chính đi ngược lên vài cây số sẽ gặp hang Hàm Rồng. Gọi hang Hàm Rồng bởi miệng hang tủa xuống những nhủ đá dài nhọn, chơm chởm như răng rồng. Hang rộng tới mức có thể chứa cả một trung đoàn quân tinh nhuệ.
Chiều xuống, thung lũng Mưng Khản nhuộm tím màu nắng lụa. Những đàn trâu đủng đỉnh từ núi xuống, thủng thẳng dắt bầy theo phố núi. Những chú ngựa thồ hàng, căm cắm trên đường về bản. Những ruộng lúa Séng Cù mơn xanh sức dậy thì. Mơn mỡn từng nương ngô nương đậu. Sự no ấm lan tỏa theo từng sợi gió. Rồi thì điện đèn bừng sáng. Phố núi đẹp tới ngỡ ngàng, choáng ngợp. Ai mà tin được điện đã vượt núi vượt rừng đi xa đến vậy, đến tận từng thôn bản mau như vậy. Đây mới chính là huyền thoại kỳ vĩ nhất của Mường Khương trong thời đại mới.
Chúng tôi đến thăm gia đình nhà thơ Pờ Sảo Mìn, tác giả bài thơ nổi tiếng “Cây 2000 lá”. Té ra đó là dự báo của anh về dân tộc Pa Dí. Nhà văn Đoàn Hữu Nam khi dẫn tôi ra cửa Khẩu Lào Cai, nói: “Dân tộc Pa Dí chỉ 2000 người mà sinh ra một nhà thơ như Pờ Sảo Mìn thì quả là không tưởng nổi”. Vâng, đúng là như vậy thật. Nhà văn Nguyễn Lập Em kể tôi nghe về thời Pờ Sảo Mìn xuống Hà Nội học trường viết văn Nguyễn Du. Đó là thuở hàn vi của cả thầy và trò. Vậy mà Pờ Sảo Mìn còn nách theo cả con mọn. Cha con rau cháo đùm túm với nhau. Nheo nhóc lửa củi, lửa khói bếp dầu. Lâu lâu chị Pờ từ trên núi xuống, cụ bị lủ khủ cá mắm, thịt khô, trứng gà trứng vịt. Đó là lúc Pờ Sảo Mìn vung tay ới bạn bè tới “ăn” một trận rượu ngô Mưng Khản, kèm một tiệc thơ bỏ túi, ào ào nắng gió ải biên cương thổi trong ngực mỗi người. Mà thơ Pờ thì… sắc lạnh như vách đá cao nguyên, đổ xối ào ào như thác nước Mang Leng. Cái nghèo rình rập, nhà thơ phải gieo sự giàu có vào câu chữ mà quên đi những đêm đông lạnh buốt. Thế rồi không biết bằng cách nào đó, nhà thơ Pa Dí cũng mua được vuông đất ở Cầu Giấy, dựng được cái tổ cho con cái yên tâm ăn học. Con trai con gái thành đạt cả. Cả nhà Pờ Sảo Mìn là tri thức. Ấy là huyền thọai chứ còn gì.
Nhớ cái hôm ở Pha Long, không hiểu ma sai qủy khiến thế nào, tôi hỏi bí thư xã Vàng Sẻo Hòa, rằng người H/Mông Pha Long có nhiều người học cao không. Pờ Sảo Mìn nhìn tôi như người mới từ cung trăng rớt xuống. Là bởi Pờ cho rằng, tôi chẳng hiểu gì về việc giáo viên lên cắm bản ở Pha Long đã từ lâu lắm rồi; ở Pha Long cứ ba người thì có một người đi học; ngay trong năm 2005 này, Pha Long có ba người H/Mông đang theo đại học, cao đẳng thì tới mấy người, không kịp nhớ tên mà kể ra. Ấy cũng là huyền thoại- mà là huyền thọai kỳ diệu của miền cao nguyên hoa đá. Tôi đã nghe anh Hoàng Đình Tập, người dân tộc Tày, hát bài “Người H/Mông có chữ”, rồi lại hát bài “Người H/Mông có điện”. Rồi tận mắt tôi nhìn thấy, không biết bao nhiêu cô gái váy áo hoa xòe, ngồi lướt ngón tay thoăn thoắt trên bàn phím máy vi tính. Khi tìm đến một Minilab mua phim, tôi gặp khá nhiều chàng trai, cô gái đủ các dân tộc đi chụp ảnh Hàn Quốc. Vậy mà bên vệ đường chợ phiên, người ta vẫn bày bán từng gùi ngô, từng lọn chè, từng túm củ mài. Chen vai với họ, tôi cũng hì hụp húp một tô phở chua, ăn một bát bánh đao. Rẻ lắm. Chỉ hai ngàn đồng là no cả buổi. Vậy mà ở vùng đất cao hơn ngàn thước so với mặt biển này, Pha Long đã có cả trường mẫu giáo, trạm xá có tới 14 giường bệnh, với 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá và 1 hộ lý. Chênh vênh trên các triền núi cao sừng sững, ruộng bậc thang ngời ngợi nắng, lúa gặp mưa đã phún lên non nõn. Chủ tịch xã Thào Sẻo Chanh khoe, dân các bản Pha Long bây giờ không còn khát nước, bình quân lương thực đầu người đã đạt 360 kg gạo một năm. Vui nhất là trai gái chở nhau bằng xe honda về tận bản. Con ngựa vùng cao bây giờ đỡ khổ nhiều lắm. Cả con trâu, con bò cũng nhởn nhơ gặm nắng triền đồi.
Không phải thói quen, nhưng tôi cũng xin chép ra đây vài số liệu mà bí thư Vàng Sảo Hòa cung cấp. Diện tích đất tự nhiên của Pha Long là 2.713 ha. Trong đó có 430 ha đất nương, 105 ha lúa một vụ, còn lại là đất trồng rừng. Cả xã có 7 dân tộc, 80% là đồng bào H/Mông, chia làm 20 cụm dân cư với 14 thôn bản, 2.889 khẩu, 496 hộ. Từ có quyết định 135 của Chính phủ, Pha Long từng bước đổi đời, mức sống của người dân càng ngày càng được nâng cao. Đầu tư về nguồn nước ăn, mương thủy lợi, trường học, trạm xá được phát huy trông thấy. Xã có trường mầm non, trường tiểu học, trong đó 3 trường đã được kiên cố hóa, đạt chuẩn quốc gia. 100% dân số phổ cập tiểu học; hiện Pha Long đang phấn đấu đến năm 2007 sẽ phổ cập trung học phổ thông. Điều đó chắc không khó gì, bởi khó như việc xóa cây thuốc phiện mà Pha Long còn làm được. Huyền thoại về Pha Long bừng sáng đang dần thành huyền thoại của thời đại, bởi bàn tay và khối óc người dân đang gieo tình yêu từng ngày từng giờ xuống miền cao nguyên hoa đá đầy tự hào của họ.

TRỜI CAO ĐẤT RỘNG TÌNH NGƯỜI MÊNH MÔNG
Suốt mấy ngày ở Mương Khương, anh Ngô Đức Vũ- trưởng Ban Tuyên Giáo huyện- lúc nào cũng tháp tùng dẫn đắt chúng tôi từng đường đi nước bước. Lúc ở đồn biên phòng 235, lúc ở đồn biên phòng 241. Lúc ở Mường Khương, lúc ở Vân Nam Trung Quốc. Lúc dầm chân bên thác nước Tà Lâm, lúc vuợt dốc chín quai dài hun hút. Lúc rưng rưng nắng lụa, lúc lãng đãng mây bay ngang thắt lưng mình. Đi tới đâu cũng nghe tiếng vó ngựa khua giòn vách núi. Và tên đất thì cứ rung lên nao dạ nao lòng. Nậm Cháy, Nấm Lư, Tung Chung Phố, Lùng Khấu Nhin, Cao Sơn, Lùng Vai, Bản Lầu, Bản Sen, Tả Ngài Chồ, La Pan Tẩn, Tả Thàng, Tả Gia Khâu, Pha Long, Dìn Chin… Hình bản đồ Mường Khương na ná như hình gấu mẹ nhìn sâu vào tổ quốc, khỏe căng lên sức vóc đang rằm.
Chúng tôi đã tận mắt nhìn thấy sông Xanh uốn lượn như dải lụa trong chan hòa nắng sớm. Cách đây hơn một năm, người dân đã thấy một con hổ ngồi bên sông Chảy giỡn nước. Dấu chân của nó trải dọc theo dòng sông, nơi có những cánh rừng tự nhiên ngút ngàn sắc lá. Anh Sền Chẩn Phủ, nắm tay tôi, nói như khẳng định: “Rừng mọc lên hổ nhất định sẽ về. Có cả gấu nữa đấy”. Tôi tin lời Chẩn Phủ. Bởi ngoài rừng tự nhiên, những cánh rừng sa mu cũng đang trùng trùng lớn dậy. Nhà Pờ Sảo Mìn tiếng là ít rừng, cũng có tới non năm ngàn cây sa mu 16 tuổi. Thời giá vào lúc này khoảng 160.000đ00 một cây. Dài thêm 15 năm nữa, giá mỗi cây lên vài triệu bạc. Bấy giờ Pờ là tỉ phú, chứ đâu còn là triệu phú như bây giờ; tha hồ mà làm thơ, ào ào như mây bay thác chảy. Gỗ sa mu mềm mà chắc, vân đẹp như mây lượn, lát sàn nhà mát rượi. Người Mường Khương khi xuôi tay nhắm mắt, ai cũng thích được nằm trong gỗ sa mu đất mẹ. Nhưng sa mu là giống thông ôn đới, chỉ thích nghi với những độ cao se sắt gió. Còn cây mỡ thì lại ưa những vùng đất thấp hơn.Và khi cây mỡ tới độ, lõi của nó chính là gỗ vàng tâm qúy như vàng ròng. Dọc theo sông Nậm Thi, con sông mang tên “sợi nước”, mỡ mọc trùng trùng như vô cùng vô tận. Đó là vô tận vô cùng giàu có mà con người đã và đang dệt thổ cẩm cho cao Nguyên Lào Cai đầy thơ mộng.
Đường lên Mường Khương là đường lên với độ cao trùng trùng núi dựng. Đường lượn ngoằn ngoèo như trăn như rắn, như những điệu sli kéo dài từng phiên chợ. Những bản nhà sàn trông hiền như thảo quả. Những bước chân đồng bào gùi nặng, xoãi như cắm vào đất chắc nịch. Đã có nhiều lời mời tôi tháng 10 lên ăn mừng lúa mới. Lúa Mường Khương nổi tiếng với gạo Séng Cù, dẻo như nếp, thơm như hương rừng, dẻo tới tận cùng từng hạt cơm thấm đượm mồ hôi lao động. Lúa chỉ trồng một vụ theo mưa nước của trời. Cứ sau vụ thu hoạch đậu tương thì bà con trồng lúa. Lúa và ngô tháng năm mọc xanh từng dốc núi. Qua tháng sáu, tháng bảy, khi mưa nhiều, thác Mang Leng sẽ chuyển mình, tung xõa từng bờm tóc nước, đẹp như thời con gái.
Chúng tôi đi ngang qua thác Mang Leng đến với chợ phiên Pha Long. Tiếng H/Mông, Pha Long là Hóa Lùng, có nghĩa là rồng to, chợ to. Phiên chợ Pha Long quả là to ngoài sức tưởng của tôi. Từ sáng sớm, trên khắp mọi nẻo đường, đã thấy ngừơi từ các thôn bản nối nhau về chợ. Họ đi thành đoàn cũng có, đi từng nhóm cũng có, đi từng người, từng cặp cũng có. Người gùi hàng. Ngựa cũng thồ hàng. Và lẽ đương nhiên, trong thời mở cửa, đồng bào mình còn xuống chợ cả bằng xe máy. Váy áo xúng xính. Những chiếc ô xòe ra như nấm trên đầu thiếu nữ. Có người chỉ dẫn theo một con lợn lông đen, nhinh nhỉn chừng năm sáu ký.
Chạm mắt tôi đầu tiên là bãi buộc ngựa. Hàng chục, hàng trăm con. Chúng đứng thành bãi. Có con nép bên vách núi. Im lặng như đang suy gẫm về phiên chợ của con người. Có cả trâu bò cũng được dẫn xuống chợ để bán. Còn thì ngô, gạo, dậu tương, lá thuốc và đủ thứ hàng họ của thời công nghiệp. Chợ họp hai bên đường. Chợ họp thành bãi ngoài vạt nắng óng ả. Chợ họp cả trong nhà lồng, lều trại. Người đông tới chóng mặt. Chen nhau mà vui, mà mua bán, bắt chuyện làm quen. Thích nhất là ngồi xổm xuống mà lựa hàng, mà ngã giá từng món một. Chỉ là cho vui chứ có đắt đỏ gì. Có ông lão người Dao quãy hai cái khèn đi bán. Ông lão lâu lâu dừng lại, thổi khàn khàn một điệu gì đấy. Trẻ con há mồm đứng nghe. Các cô gái che miệng cười khúc khích. Kỳ công tre nứa là vậy, giá chỉ phần tư triệu bạc. Ồn ào tiếng người H/Mông, người Tày, người Pu Déo, người Lô Lô, người Giáy, người Nùng… Thơm ngát tới mời mọc là những chảo tháng cố thịt ngựa, thịt trâu, thịt lợn, thịt gà.. Lìm lịm là thứ rượu ngô của miền biên cương phún hoa đá. Đàn bà đi lại mua bán nhộn nhịp. Đàn ông chỉ thích vào quán rượu. Cô vợ nào có chồng say khướt ra tới mức phải dìu về thì rất lấy làm tự hào với chúng bạn. Ấy là bởi chồng mình được người ta yêu thích mời rượu tới say gục quên cả đường về. Cả tuần quần quật trên nương trên rẫy, tới chợ phiên phải được một ngày phủ phê sung sướng. Chuyện bắt vợ đã lùi vào dĩ vãng, nhưng những mắt liếc dọc ngang thì vẫn còn sắc lắm. Pờ Sảo Mìn dạy tôi cách bấm ngón tay kéo gái. Lại còn dặn Anh Đào, lỡ ai tới bắt, nhớ vùng vẫy và la cho lớn, thế mới tỏ cái giá của mình. Việc bắt vợ càng khó, càng phải tỏ quyết tâm cho kỳ được. Nhưng bây giờ thanh niên họ bắt nhau bằng duyên nợ. Dài suốt những chợ tình mọc từ sáng qua trưa, tới xế chiều mới dứt. Nghe nói một bộ váy áo H/Mông sặc sở sắc màu thổ cẩm, mua từ Trung Quốc về tới Mường Khương, đã lời hai mươi ngàn bạc; đem tới Sơn La phải lãi tới năm chục ngàn. Việc đồng bào cõng hàng qua đường biên cũng là lẽ thường tình. Chả thế mà có người còn thuê cả xe ô tô để buôn hàng. Bởi vậy ở chợ phiên nào, cũng thấy tưng bừng hàng họ từ Trung Quốc. Giả như bạn có ý định muốn mua một món thịt thú rừng ăn cho biết, không dễ gì mà kiếm được. Năm 1993, ở Tả Thàng có người lỡ bắn chết một con gấu ngựa 80 ký, bí thư xã, bí thư huyện khóc đỏ mắt.
Huyền thoại Bắc Hà có rừng ong mịt trời cả trên cây, cả trong ruột đất đã chỉ còn trong sách. Người Mường Khương bây giờ muốn đi ăn ong phải vất vả hàng ngày trời tìm kiếm. Tốt hơn vẫn là nuôi lấy trong vườn nhà mình. Đất Mường Khương lúc nào không có hoa trên núi. Ong nuôi nhưng vẫn là mật rừng đấy chứ. Nhà bí thư Tạ Đình Bảng có tới mấy đỏ ong. Lại còn giống gà tre nhỏ như gà rừng. Lại còn cả mấy lồng cu, mấy chuồng chim câu xanh. Buổi chiều, chim én liệng từng đàn. Phố núi rợp trời én liệng. Người biết qúy rừng thì chim chóc cũng tụ về sinh sống. Đinh, lim, trai, nghiến một thời làm nên danh tiếng Mường Khương, giờ không còn nữa. Người Mường Khương thương xót rừng nên biết bảo ban nhau giữ từng cánh rừng trên vách núi. Đi tới đâu cũng thấy người dân ươm cây sa mu, cây mỡ. Từng cây từng cây, từng ngày từng ngày, rừng đã mọc xanh trong tâm thức của con người. Chương trình 135 của chính phủ, hỗ trợ cho mỗi ha rừng 1,5 triệu đồng; nhưng số tiền, số công sức người dân đổ ra cho rừng sống dậy còn nhiều hơn biết ngần nào. Bí thư huyện Tạ Đình Bảng kể cho tôi nghe việc anh đi săn lùng từng giống cây đem về trồng thử, thấy được mới dám chỉ cho dân trồng theo. Ngay như cả giống ngô cho người, giống cỏ cho bò, anh cũng phải lặn lội vào tận Đồng Nai tìm kiếm. Chuyện con ngựa, con trâu, con bò, con lợn… cũng là chuyện phải bạc đầu suy nghĩ. Nói gì chuyện mở con đường lên bản, kéo đường điện về thôn, khai mương dẫn nước, dựng trường, xây trạm xá.
Chúng tôi lên Mường Khương đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Phố huyện như muốn bùng vỡ trước sự đông đúc của bao nhiêu người kéo về. Hội thi thể thao, văn nghệ. Bóng chuyền, bóng đá ì đùng cả ngày. Tới bữa cơm, quán xá đầy ắp những người là người. Tháng cố kéo từng tô lớn. Rượu ngô kéo từng chai lớn. Chuyện trò kéo theo quyết tâm chiến thắng. Phừng phừng lửa rượu trên mặt người. Ai cũng thân nhau như ruột thịt tự bao đời.

CHÀO NHÉ MƯỜNG KHƯƠNG
Dùng dằng dúng dắng mãi, nhưng đằng nào rồi cũng phải về. Pờ Sảo Mìn sẻ tám lít rượu ngô cho bốn người. Đó là tinh hoa của cao nguyên, là thuốc của đồng bào dân tộc. Đem vào tận quê dừa cực Nam tổ quốc, giá lên đến ngần nào, không làm sao đong được.
Tàu lắc lư từ Lào Cai về Hà Nội. Hương sa mu quanh quẩn mãi bên người. Gặp nhà thơ Hữu Thỉnh, anh cứ nhất định bắt ở chơi một ngày. Hà Nội đang nghỉ lễ, nhưng dặm đường chúng tôi vẫn còn xa. Lỗi đạo cũng đành lòng, chứ biết làm sao được.
Đêm giật mình trên con tàu xuyên Việt, Song Hảo vén rèm cửa, hỏi Tây Bắc hướng nào. Lập Em chỏi tay trái trên giường tầng ngồi viết. Ngòi bút rung theo nhịp lắc con tàu, hay nhịp đập trái tim, ai mà biết. Anh Đào thả một lời vào gió: chưa chi mà đã nhớ Mường Khương.
Thôi thì đành…
Chào nhé Mường Khương!

H.T.T.